QĐND - LTS: Trung tướng, Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Hồng Sơn (1923-2013) nguyên Cục trưởng Cục Quân huấn, nguyên Phó giám đốc Học viện Quốc phòng, nguyên Phó viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng-Bộ Quốc phòng là người chỉ huy nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch nổi tiếng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Bài viết của Phó giáo sư, Tiến sĩ Đặng Anh Đào, phu nhân của Trung tướng, kể về những tháng ngày gian khổ ở chiến trường, tình cảm của ông đối với gia đình và đồng đội.
Ngôi nhà hương hỏa của ba tôi - Đặng Thai Mai - ở một nơi “khỉ ho cò gáy” nhưng bạn bè vẫn lặn lội vào thăm. Vào một ngày hè năm 1952, có hai người khách lạ hoắc đến chơi nhưng ba mẹ tôi đón tiếp rất nhiệt tình. Đó là anh Phạm Hồng Sơn và chị Kim, đều là cháu ruột của liệt sĩ Phạm Hồng Thái. Bấy giờ, tôi không hề ngờ rằng anh sẽ là người gắn bó suốt đời với tôi. Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, anh được nghỉ phép về cưới vợ. Ngay sau ngày cưới, anh cấp tốc đi chiến trường để kịp đánh một trận cuối trước khi tiến về Hà Nội, trận Cầu Lồ tuy nhỏ nhưng rất khốc liệt.
 |
Đồng chí Phạm Hồng Sơn về thăm nhà giữa hai chiến dịch ở Tây Nguyên. |
Rồi đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, anh lại ra trận. Bao nhiêu cuộc chia ly tôi không nhớ hết, nhưng có lẽ nhớ nhất là lần anh đi vào tháng 12-1967. Hôm ấy, anh trở về nhà giữa giờ làm việc - đó là thời anh đang là Cục trưởng Cục Quân huấn, Bộ Tổng tham mưu - hấp tấp thu xếp ba lô, nói rằng anh phải đi công tác xa đột xuất. Sau này, tình cờ đọc mấy dòng nhật ký bỏ dở của anh, tôi mới biết: “Đồng chí Giáp (Võ Nguyên Giáp) đang đi chữa bệnh ở Liên Xô. Đồng chí Dũng (Văn Tiến Dũng) gặp tôi không phải ở Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu mà ở Thủ tướng phủ. Tôi được giao nhiệm vụ vào làm Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Mặt trận Tây Nguyên và phổ biến cho Bộ tư lệnh Mặt trận giờ nổ súng thống nhất là 12 giờ đêm 30 Tết. Tôi nhớ nhất câu đồng chí Dũng dặn: Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa tiến hành trong 3 tháng xuân Mậu Thân và ta nhất định phải giành thắng lợi”…
Lần chia tay này là lần duy nhất tôi được cùng hai con nhỏ đi tiễn anh ở sân bay quân sự. Tiếng ù ù của cánh quạt, gió mù mịt làm tôi không thấy được gì. Lá thư lần đầu tiên của anh ghi rõ ngày và nơi gửi, kể nhiều về xứ lạ: “… Hôm qua lên máy bay rồi nhìn qua cửa kính chẳng rõ gì cả, chẳng hiểu em đã về chưa, cứ ngó hoài, vẫy tay hoài mà chẳng biết em và con có nhìn thấy không… Đến Nam Ninh (Trung Quốc), cả ngày hai tai cứ ù lên vì loa, hai loa hai bên, mỗi bên 5, 6 người nói chứ có phải một đâu, nói ra rả suốt ngày không nghỉ…”. Trong cùng lá thư ấy, lại nhảy cóc sang một thành phố khác, viết vào ngày hôm sau: “Anh ở Quảng Châu-thành phố lớn của Trung Quốc có trên 3 triệu dân, lớn gấp 3 Hà Nội... Sáng mai anh đi thăm mộ chú Phạm Hồng Thái ở Hoàng Hoa Cương. Chiều mai 2 giờ anh đi phi cơ lần nữa thì đến nơi”. Sau này, đọc những dòng nhật ký của anh, tôi mới hiểu hành trình vào chiến trường Tây Nguyên của anh: “Tôi đi vào Tây Nguyên bằng đường tàu bay sang Trung Quốc, rồi bay sang Phnôm Pênh. Từ đó đi ô tô lên một tỉnh Tây Bắc Cam-pu-chia giáp biên giới Việt Nam, phía gần B3 (chiến trường Tây Nguyên)… Khi đi tàu bay nội địa Trung Quốc, hành khách đã lên máy bay, cô chiêu đãi viên đứng trước mọi người, giở quyển sổ đỏ của Mao Chủ tịch đọc một lần thì mọi người đều phải đọc theo”.
 |
Hàng thứ nhất từ trái sang: Đồng chí Phạm Hồng Sơn (thứ hai), Tư lệnh mặt trận Lê Trọng Tấn (thứ ba) cùng các cán bộ ở Mặt trận Quảng Trị năm 1972. Ảnh tư liệu gia đình bà Đặng Anh Đào. |
Sau đó, từ tháng 12 đến Tết Mậu Thân, thư từ thưa thớt hẳn đi. Rồi tôi nhận được thư đề ngày 4-3, rất nhiều câu “đối cảnh sinh tình” chứng tỏ đợt Tổng công kích đã qua: “Sáng nào tiếng vượn hót cũng cao vút hơn tiếng chim vang cả rừng. Trông những con gà con chạy trước mặt anh lại nhớ tụi trẻ ở nhà. Anh làm việc ngày đêm nhưng vẫn khỏe, có đôi ngày bụng hơi khó chịu nhưng uống mật ong nghệ lại đỡ hẳn…”. Anh nhờ chú liên lạc mang về nhà tôi cả một chùm lông công rực rỡ, bọn trẻ láng giềng cũng nắc nỏm khen đẹp. Vậy là cuộc chiến không chỉ kéo dài trong 3 tháng, mà tới 7 năm. Anh bắt đầu nói tới những cơn sốt rét rừng: “Mới bị trận thứ hai mà dậy đi lảo đảo chỉ chực ngã”. So với chú công vụ 18 tuổi đời, vì chưa qua thử thách nên: “Sốt rét liên tục từ khi vào chỉ còn bằng một nửa người ngoài đó. Khi ốm, anh lại lo cho Đào, chẳng may ốm thì ai chăm sóc cho”. Sau này, đọc Nhật ký chiến trường của anh, tôi biết anh còn có những niềm vui và mối lo khác. Anh tự hào vì đơn vị anh lần đầu tiên có xe tăng vào cuối năm 1967 trên đất Lào, mở đường tới Đường 9-Khe Sanh rồi tới đầu năm 1968 đánh một trận hiệp đồng binh chủng từ Huổi San tới Làng Vây. Năm 1971, đơn vị anh lại có sự hỗ trợ của xe tăng và thiết giáp ở chiến dịch cũng mang tên Đường 9… Vào năm 1969, Phạm Hồng Sơn lại được lệnh chỉ huy Chiến dịch Đắc Tô 2. Nhật ký lại chi chít những dòng chữ ghi tỉ mỉ kế hoạch chuẩn bị đối phó với địch. "Yêu cầu bí mật: Chuẩn bị sát với bộ đội chiếm lĩnh mà không đi trước lâu như các trận kia… Gạo chuẩn bị ra gần hơn, thay phiên theo đơn vị… Lấy đánh vận động là chính. Phòng: Phòng hóa học, phòng không, phòng pháo, phòng tăng. Phòng hóa học thành vấn đề lớn vì địch dùng hóa chất phổ biến và mật độ lớn. Chú ý cách cơ động chốt vây ép, nghi binh ngụy trang cho khéo… Tổ chức chỉ huy: Cần có các trạm trung gian, sử dụng điện thoại cầm tay với các đơn vị trung gian…”. Những trang xúc động nhất lại viết về diễn biến trận đánh, đặc biệt là phần trước giờ nổ súng. Toàn những tên làng, tên núi, tên sông xa lạ với tôi, bấy giờ mù mịt trong khói lửa. Đối với Phạm Hồng Sơn, người của các chiến dịch, ở rừng Tây Nguyên chỉ có hai mùa: Mùa khô và mùa mưa. Tùy theo mùa, dựa vào phán đoán ý đồ và biến động của địch mà hạ quyết tâm. Ví dụ, khi địch biên chế thành các “chiến đoàn”: "Trung đoàn ta có khả năng tiêu diệt các chiến đoàn không? Bao nhiêu lâu?”. Để rồi khẳng định: “Trung đoàn ta có khả năng diệt chiến đoàn địch trong 5-7 ngày”. Năm 1970, những dòng đứt đoạn: “6-1-1970: Hai năm ở Tây Nguyên. Liên tục đi các chiến dịch từ Bắc Tây Nguyên tới Nam Tây Nguyên... Đã cùng bộ đội mang lại thắng lợi vẻ vang. Đã xây dựng được truyền thống đã đánh là thắng”.
Đầu năm 1970, anh trở về Cục Quân huấn mấy tháng rồi lại vội vã đi. Lại những dòng tốc ký, mở đầu bằng: “Tham gia chỉ huy hai chiến dịch: Đường 9 Nam Lào rồi Quảng Trị-Thừa Thiên. Lại như hồi ở Tây Nguyên, nhà lá, rừng xanh, vắt và tối, lại lắp thêm kính vì thiếu ánh sáng khi làm việc”… Đến tháng 4-1972, anh cùng Sư đoàn 308-đơn vị gắn bó với anh nhất-phối hợp với Sư đoàn 304 liên tục bám đánh giải phóng hoàn toàn thị xã và tỉnh Quảng Trị rồi ở lại bảo vệ Thành cổ trong 81 ngày đêm mịt mù khói lửa…
Đời người rất dài mà cũng rất ngắn. Nay anh đã đi vào cõi thiên thu. Nhưng anh không chết trong tâm tưởng của những người từng đi qua cuộc đời anh. Nhà văn Hồ Phi Phục đã viết: “…Ông là chiến binh kỳ cựu, đánh giáp lá cà buộc phải luôn chớp nhanh cách thắng mà sống… Một vị tướng văn võ song toàn ra đi từ giảng đường đại học, trưởng thành trong chiến tranh giữ nước; một đời hồn chiến phơi phới. Đó là Phạm Hồng Sơn”. Những dòng chữ ấy làm sống lại hình ảnh của anh trong tôi. Tôi vẫn gọi anh là “Người không biết đau, không biết buồn”. Nhưng tôi vẫn thấy một đoạn thư buồn viết sau ngày Chiến thắng Đường 9: “Nghe chuyện lính địch chết ngoài chiến trường, có những tiếng kêu cứu “các chú ơi, cứu cháu với” sao anh buồn thế”…
Tháng 6-2013, anh vào tránh nắng ở nhà đứa con trai. Những cơn đau bụng dữ dội buộc anh phải vào Bệnh viện Quân y 175. Bấy giờ anh đã bị bệnh quên. Khi làm các xét nghiệm, phải có tới ba bốn người rất khỏe mới khóa tay anh được để khiêng lên giường. Chuyển ra Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, anh bị mổ ổ bụng, vết thương không lành được, mổ thêm hai lần nữa, nhưng không ai nghe thấy tiếng kêu rên, chỉ thấy anh nhăn mặt lại. Tôi nhớ lại câu nói của chị cả tôi, Đặng Bích Hà: “Anh Văn bảo Hồng Sơn đánh trận dũng cảm và khôn lắm”.
Phạm Hồng Sơn suốt đời đứng trong quân ngũ. Anh ra đi cũng từ bệnh viện quân đội, quan tài phủ cờ Tổ quốc có xe kéo, hàng trăm tiêu binh cùng hầu hết đồng đội, các chú trong đội bảo vệ hồi ở Tây Nguyên tiễn anh đến nơi an nghỉ cuối cùng. Theo phong tục truyền thống, vào tháng 10 âm lịch năm nay, gia đình làm “giỗ hết” cho anh. Nhưng một người bạn nói rằng: “Không bao giờ hết, khi người ra đi vẫn sống trong tim ta”.
ĐẶNG ANH ĐÀO