PGS, TS Nguyễn Danh Tiên, Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng đã nhấn mạnh như vậy trong cuộc đối thoại với phóng viên Nguyệt san Sự kiện và Nhân chứng, Báo Quân đội nhân dân nhân kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng ra đời và sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc
Phóng viên (PV): Trong sự kiện ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, có thể thấy, sự kết hợp nhân tố dân tộc với nhân tố giai cấp là sáng tạo nổi bật của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Đồng chí có thể phân tích thêm về yếu tố dân tộc trong sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930?
PGS, TS Nguyễn Danh Tiên: Sự ra đời của Đảng là kết quả của sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Như vậy, khi đề cập đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai yếu tố là Chủ nghĩa Mác-Lênin và phong trào công nhân, Hồ Chí Minh còn kể đến yếu tố thứ ba, đó là phong trào yêu nước. Đây là một quan điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam. Sở dĩ Người có sự bổ sung, phát triển đó theo chúng tôi là bởi:
Thứ nhất, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam; là giá trị văn hóa trường tồn trong văn hóa Việt Nam.
Thứ hai, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước. Hai phong trào này đều có mục tiêu chung giải phóng dân tộc, làm cho Việt Nam được hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước hùng cường. Hơn nữa, phong trào yêu nước có trước phong trào công nhân, phong trào công nhân xét về nghĩa nào đó nó lại là phong trào yêu nước.
Thứ ba, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Nói đến phong trào yêu nước Việt Nam phải kể đến phong trào nông dân. Do đó, giữa phong trào công nhân và phong trào yêu nước có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Thứ tư, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chính vì vậy, sự xuất hiện của nhân tố phong trào yêu nước trong sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam như một điều hiển nhiên, tất yếu. Nó nhân lên sức mạnh của Đảng, tạo chỗ dựa vững chắc cho Đảng, cho giai cấp công nhân Việt Nam.
PV: Cũng về yếu tố dân tộc, ở một khía cạnh khác, tên gọi của Đảng cũng cho thấy điều đó. Trong khi Quốc tế Cộng sản chủ trương thành lập một đảng cộng sản chung cho 3 nước Đông Dương thì Nguyễn Ái Quốc lại có một tư duy khác. Người phân tích trong thảo luận và được hội nghị thành lập Đảng nhất trí đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo đồng chí, điều đó xuất phát từ đâu và nó có ý nghĩa như thế nào trong hoàn cảnh lịch sử lúc ấy cũng như sau này?
PGS, TS Nguyễn Danh Tiên: Về lý do đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, trong hội nghị hợp nhất, Nguyễn Ái Quốc giải thích: “Cái từ Đông Dương rất rộng, và theo nguyên lý Chủ nghĩa Lênin, vấn đề dân tộc là một vấn đề rất nghiêm túc, người ta không thể bắt các dân tộc khác gia nhập Đảng, làm như thế là trái với nguyên lý Chủ nghĩa Lênin. Còn cái từ An Nam thì hẹp, vì An Nam chỉ là miền Trung của nước Việt Nam mà thôi, và nước ta có ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Do đó từ Việt Nam hợp với cả ba miền và không trái với nguyên lý Chủ nghĩa Lênin về vấn đề dân tộc”.
Theo Nguyễn Nghĩa (Nguyễn Thiệu)-đại diện An Nam Cộng sản Đảng tham gia hội nghị hợp nhất, vấn đề đặt tên Đảng diễn ra hết sức phức tạp. Các đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng đề nghị giữ lại cái tên Đông Dương Cộng sản Đảng. Các đại biểu An Nam không đồng ý, cho rằng đó là cái tên của một nhóm cộng sản cũ không nên dùng lại… Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc phân tích sâu sắc và thuyết phục các đại biểu đồng ý lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định: “Rốt lại, chỉ có cái tên Việt Nam là đúng hơn hết và thích hợp nhất… Nước ta đang bị bọn đế quốc chiếm cứ, nhân dân ta phải có nhiều hành động quật khởi thì rồi người ta mới biết tên biết tuổi được. Cái tên Đảng Cộng sản Việt Nam không còn lẫn vào đâu được, mọi người sẽ không nghĩ đến một tổ chức cũ nào cả”.
Có thể khẳng định, việc đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với thời điểm lịch sử lúc bấy giờ và đối với hiện nay, vì nó tập hợp được sức mạnh của cả dân tộc Việt Nam vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước ngày nay.
Hành trình 90 năm, Đảng là đạo đức, là văn minh
PV: Trong 90 năm từ khi ra đời và gần 75 năm nắm quyền lãnh đạo, có thể nói, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua một thời kỳ đặc biệt trong lịch sử bi tráng của dân tộc. Có những thời điểm cam go, có ý nghĩa sống còn nhưng Đảng đều lãnh đạo đất nước vượt qua. Đâu là nguyên nhân mấu chốt để Đảng vượt qua thử thách, đưa đất nước tiến lên, thưa đồng chí?
PGS, TS Nguyễn Danh Tiên: Có nhiều nguyên nhân nhưng có lẽ bao trùm lên tất cả, đó là nhờ Đảng ta luôn giữ vững sự đoàn kết, thống nhất. Thực tế gần một thế kỷ qua cho thấy, ở Việt Nam không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang, giành được hết thắng lợi này đến thành công khác.
Hiện nay, đoàn kết, thống nhất trong Đảng càng phải được xem là một chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự đoàn kết, thống nhất, có như vậy thì hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc mới đoàn kết xung quanh Đảng. Đoàn kết của Đảng chính là tấm gương cho cả hệ thống chính trị và là nhân tố quyết định bảo đảm đoàn kết dân tộc.
Đặc biệt, trước thềm Đại hội XIII của Đảng, khi chúng ta đang đứng trước thời điểm phải lựa chọn những người xứng đáng, vừa có tài, vừa có đức để đảm nhận những trọng trách lãnh đạo đất nước, thì hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất. Đây là trách nhiệm lớn, mà trước hết là của tập thể, cá nhân lãnh đạo từ Trung ương đến từng cơ sở. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ giữ trọng trách lãnh đạo từ cấp cao đến cấp cơ sở phải thực sự thực hiện nghiêm lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
PV: Quá trình lãnh đạo, Đảng cũng vấp phải sai lầm, khuyết điểm. Nhìn lại những sai lầm ấy cũng là cách để chúng ta rút ra bài học cho hiện tại và tương lai. Nghiên cứu về lịch sử của Đảng, đồng chí có thể nói gì về điều này?
PGS, TS Nguyễn Danh Tiên: Trong quá trình lãnh đạo, Đảng cũng có những sai lầm, khuyết điểm nhất định, như để xảy ra tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thiếu dân chủ ở một số nơi và trong một số trường hợp; những yếu kém, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng, những suy thoái, tiêu cực ở một bộ phận cán bộ, đảng viên... Nhưng Đảng ta luôn nhìn thẳng vào sự thật, khẳng định ý chí quyết tâm sửa chữa, khắc phục, đẩy lùi những sai lầm, khuyết điểm để Đảng không ngừng nâng cao sức chiến đấu, phẩm chất, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, ngang tầm với trọng trách được giao. Có thể kể đến như, năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã tự chỉ trích những khuyết điểm của mình; sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Sửa đổi lối làm việc” với tinh thần tự phê bình nghiêm túc. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã tự phê bình và chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm chủ quan, duy ý chí, nóng vội, làm trái quy luật thị trường… Nhờ có tinh thần nhìn thẳng sự thật, nói rõ sự thật như vậy, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới đúng đắn. Tinh thần thẳng thắn này tiếp tục được thể hiện rõ trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI): “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” .
PV: Trong cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, theo đồng chí, cần làm gì để Đảng xứng đáng “là đạo đức, là văn minh” như mong muốn của Bác Hồ lúc sinh thời?
PGS, TS Nguyễn Danh Tiên: Sự thống nhất, hòa quyện những giá trị đạo đức và văn minh đã tạo cho Đảng có thêm sức mạnh và khẳng định vai trò trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng; làm cho uy tín của Đảng trong quần chúng nhân dân ngày càng được nâng cao; vị thế của Đảng trên trường quốc tế ngày càng thể hiện rõ nét. Trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra cho Đảng những yêu cầu mới về phẩm chất, năng lực lãnh đạo; những giá trị về đạo đức, văn minh cần phải được nhận thức đúng, nâng tầm lên cho phù hợp với vai trò của một đảng cầm quyền và sự kỳ vọng của quần chúng nhân dân. Để Đảng xứng đáng “là đạo đức, là văn minh” như mong muốn của Bác Hồ, mỗi cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt một số biện pháp cơ bản sau:
Một là, hết lòng, hết sức vì sự nghiệp cách mạng, phụng sự Tổ quốc, phục vụå nhân dân, vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của đồng bào.
Hai là, thực sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân.
Ba là, nêu cao tinh thần tiền phong, gương mẫu, nói đi đôi với làm.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống văn minh, văn hiến. Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa và không ngừng bồi đắp những giá trị truyền thống đó. Văn minh, văn hiến là sự hội tụ hòa quyện các yếu tố văn hóa, trí tuệ, đạo đức và cái đẹp. Mỗi bước phát triển và thắng lợi của cách mạng, đất nước, dân tộc gắn liền với chuẩn mực đạo đức, văn minh của dân tộc và của Đảng. Đạo đức, văn minh sẽ chiến thắng những cái lạc hậu, bạo tàn, xấu xa, bảo đảm cho Đảng lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí!
TRẦN HOÀNG – QUANG HUY (thực hiện)