Vào cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, tôi ở Rangoon, Myanmar trong một đơn vị tình báo quân sự thuộc OSS (tiền thân của CIA - Mỹ). Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, OSS cử những toán nhỏ binh sĩ sang các thành phố chính của Đông Nam Á. Sứ mạng của họ là hồi hương các tù binh chiến tranh người Mỹ bị Nhật giam giữ, tìm các ngôi mộ người Mỹ thiệt mạng và điều tra các tội ác chiến tranh. Do chưa xác lập được các cơ quan đại diện của Chính phủ Mỹ, các nhân viên OSS này còn thực hiện một số chức năng thuộc phạm vi quan hệ quốc tế.
Năm 1945, 22 tuổi, tôi cùng một toán nhân viên OSS do trung tá Peter Dewey chỉ huy, tới Sài Gòn ngày 4-9-1945, sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Tướng Douglas Gracey, chỉ huy quân đội Anh đến Sài Gòn sau chúng tôi ít hôm. Ông ta nhìn nhận sứ mạng của mình ở đây là giành lại Nam Việt Nam cho người Pháp. Hơn nữa, D.Gracey còn tìm cách dập tắt phong trào cách mạng của Việt Nam trong khi đợi người Pháp quay lại tiếp nhận Nam Bộ. Xuất phát từ các điều khoản trong hòa ước của Đồng minh (Hiệp ước Postdam), Việt Nam bị chia làm hai phần: Quân Anh tiếp quản ở miền Nam còn Trung Hoa (Quốc dân Đảng) tiếp quản miền Bắc cho tới khi quân Pháp đủ khả năng thay thế các đội quân này.
Người Pháp và người Anh chính là những thế lực chống lại sự tiếp xúc của OSS với Việt Minh ở Nam Bộ. Vì thế, Dewey và chúng tôi không thể tới gặp các nhà lãnh đạo Việt Minh ở Sài Gòn mà không bị đeo bám, theo dõi. Vì vậy, nhiều lần Dewey cử tôi đi gặp đại diện Việt Minh vào buổi tối. Vì các con phố đều tối tăm, với nhiều cựu tù binh lang thang đây đó nên tôi ăn mặc giống như họ để tránh bị nhận mặt. Tôi đến một ngôi nhà nằm trên một phố yên tĩnh, gặp đại diện Việt Minh trong vài giờ đồng hồ. Họ là những người quyết chí hiến dâng cho công cuộc bảo vệ độc lập mới giành được của nước nhà.
Tướng D.Gracey ra lệnh cho quân đội Nhật tước vũ khí của người Việt Nam, đuổi Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ ra khỏi dinh toàn quyền ở Sài Gòn. Đại diện Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ gửi cho chúng tôi một bức điện thông báo tình hình và yêu cầu Đồng minh chứng minh quyền được độc lập của nhân dân Việt Nam và tuyên bố Việt Nam đã hoàn toàn độc lập, người Việt Nam tự quyết định số phận của mình.
Tình hình ở Sài Gòn và Nam Bộ ngày càng căng thẳng.
Ngày 23-9-1945, quân đội Pháp bất ngờ đánh úp các lực lượng tự vệ của Việt Nam tại Sài Gòn-Chợ Lớn. Họ gặp phải sự kháng cự quyết liệt của Việt Minh. Quân Pháp bị bao vây trong thành phố. Nam Bộ kháng chiến bùng nổ.
Quân lê dương của Pháp, đã bị Nhật Bản bắt giam từ ngày Nhật đảo chính (9-3-1945), nay được thả ra nên rất manh động, hiếu chiến. Họ phòng ngự trong thành phố Sài Gòn, cùng với đồng minh mới của mình là 6.000 quân Nhật. Hằng đêm, chúng tôi nghe thấy tiếng trống trận của người Việt Nam vang rền bên kia sông và gần đến nửa đêm thì tiếng súng nổ ran. Những đám cháy mới bùng lên giữa các kho chè, cao su và thuốc lá trong các bến tàu. Một đêm, âm thanh của súng máy và súng cối, lựu đạn đã vang lên trong ba giờ. Sáng hôm sau, chúng tôi được biết rằng quân Nhật đã đẩy lui một cuộc tấn công của Việt Minh khi tìm cách vượt qua một trong những cây cầu vào thành phố. Mặc dù những cuộc đấu súng này khiến chúng tôi lo lắng nhưng các nhân viên OSS ngày càng đồng cảm hơn với người Việt Nam kháng chiến.
Chúng tôi không còn liên lạc được với những người đại diện của phong trào đòi độc lập cho Việt Nam nữa, nhưng những người Pháp mà chúng tôi gặp đã khiến nhóm OSS chúng tôi ngày càng trở nên thân Việt Minh hơn. Điều trớ trêu là một số trong những người Pháp chống phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai vừa đến Việt Nam lại nghĩ rằng họ đến đây để giải phóng Việt Nam! Trớ trêu hơn nữa, đội quân lê dương quốc tế của Pháp đã đưa sang Đông Dương một số tân binh chỉ nói được tiếng Đức. Đó chính là những cựu binh Đức dày dạn kinh nghiệm từng chiến đấu trong hàng ngũ quân đội của Hitler.
Vào đầu tháng 10, tướng D.Gracey cuối cùng đã đồng ý gặp các lãnh đạo của Việt Minh, những người đã yêu cầu được gặp ông kể từ khi ông ta đến Việt Nam. Sau đó, một hiệp định đình chiến được công bố và mọi thứ lắng xuống một thời gian, nhưng chỉ vừa đủ lâu để Anh và Pháp tăng quân: Quân của Anh đến từ Ấn Độ và quân Pháp đến từ Pháp. Sau đó, hiệp định đình chiến bị phương Tây lẳng lặng vi phạm, các đơn vị của sư đoàn Ấn Độ thuộc Anh bước vào tấn công. Tiếng đại bác vang lên suốt cả ngày, bầu trời trở nên bẩn thỉu bởi khói lửa do quân Anh đốt. Các tàu chiến của Pháp xuất hiện trên sông và cảng biển. Vào ngày 6-10, tướng Leclerc của Pháp sang Việt Nam nắm quyền chỉ huy. Đột nhiên, những lá cờ Pháp tung bay khắp nơi và những bức chân dung của tướng De Gaulle, người lãnh đạo Chính phủ Pháp sau Chiến tranh thế giới thứ hai, xuất hiện trên mỗi cửa sổ các cửa hàng. Một tháng trước đó, khi đội OSS chúng tôi đến Sài Gòn, Quốc kỳ Việt Nam đã được tung bay cùng với cờ của các quốc gia Đồng minh.
Từ khi nhóm OSS chúng tôi đến Sài Gòn, những cựu tù binh chiến tranh người Anh, người Australia và người Hà Lan đã là một phần của cuộc sống đường phố. Họ chờ đợi được hồi hương. Chính vào lúc đó là hàng trăm người Việt Nam bị xích tay và bị cảnh sát Pháp dẫn qua các đường phố thành từng nhóm. Cùng lúc, quân du kích Việt Nam mở một cuộc tấn công lớn nhất lúc nửa đêm vào thành phố, như để thông báo rằng họ không có ý định từ bỏ tranh đấu.
Nhưng đến cuối tháng 10, giao tranh xung quanh Sài Gòn đã lắng xuống, chỉ thỉnh thoảng có đụng độ lẻ tẻ và bắn tỉa. Tránh đối đầu trực diện với quân chính quy của đối phương, quân du kích Việt Nam phá đường sá và cầu cống, đốt các tòa nhà lớn và các kho hàng của quân đối phương.
Tôi viết một bức thư gửi về cho song thân ở Hoa Kỳ:
“Con nhận được một số thông tin rất yên tâm từ Hà Nội, Tổng hành dinh của Việt Minh. Có thể thấy, Tổng bộ Việt Minh được tổ chức tốt và có tầm nhìn sâu sát thực tiễn, bao quát được mọi vấn đề. Nhưng người Pháp vẫn quyết chí đoạt lại Đông Dương, vừa quyết định gửi 120.000 quân sang xứ sở này.
Một số người Việt Nam chấp nhận hy sinh tất cả vì nền độc lập và lên kế hoạch hành động cụ thể để đấu tranh. Nhưng hầu hết họ, kể cả những ai thụ động chờ thời, đều mong muốn nước mình được độc lập. Người Pháp đã không thể hoàn toàn tin tưởng như lúc đầu, rằng có thể cản quét được sự chống đối chỉ trong vài tuần. Con tin rằng, trừ phi có những đồn, bốt lớn giăng ra khắp nơi, với những đội tuần tra mọi lúc mọi nơi, người Pháp không thể buộc đất nước này thuần phục như thời phong kiến trước đây. Lợi thế lớn của Việt Minh là họ ở khắp mọi nơi. Việt Minh không cần phải dàn quân đánh ngay những trận lớn. Không có đòn thù nào của người Pháp có thể đánh quỵ hoàn toàn người Việt. Con chưa rõ sự đối đầu sẽ kết thúc như thế nào, nhưng chắc khó mà có được một ngày người Pháp có thể dạo chơi trên đất nước này bình an vô sự”.
LÊ HUY ĐỖ (trích dịch)