QĐND-Với bút danh Trí Cường, Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm Tự chỉ trích và được Nhà sách Dân chúng của Đảng ở phố Phùng Hưng, Hà Nội, cho ra mắt bạn đọc vào tháng 7 năm 1939. Đây là một tác phẩm có số trang không nhiều, nhưng có giá trị lớn, tổng kết lý luận và thực tiễn cách mạng của Đảng trong cuộc vận động dân chủ Đông Dương những năm 1936-1939. Lần đầu tiên, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, một Tổng bí thư đã công khai tuyên bố: “Những người cộng sản có bổn phận nói sự thật với quần chúng, dẫn đường cho quần chúng chớ không phải theo đuôi hay phỉnh họ”. Hơn 70 năm đã trôi qua, nhiều vấn đề trong Tự chỉ trích vẫn mang tính thời sự nóng hổi, đòi hỏi chúng ta tiếp cận từ nhiều phương diện khác nhau, đặc biệt những vấn đề liên quan đến xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương IV (khóa XI).
1. Thời điểm xuất hiện hai văn kiện lịch sử
Năm 1939, Đảng Cộng sản Đông Dương đứng trước một bước ngoặt mới. Trên thế giới, con đê ngăn chiến tranh thế giới do Quốc tế Cộng sản và nhân loại tiến bộ tạo ra, đã bắt đầu rạn nứt. Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đang tới gần. Ở Việt Nam, bộ máy chính quyền của thực dân Pháp đang phát xít hóa mạnh. Trước bước chuyển mau lẹ của tình hình thế giới và trong nước không có lợi cho các lực lượng cách mạng, Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ đã công bố tác phẩm Tự chỉ trích. Tác phẩm xuất hiện trong thời điểm bản lề của cuộc chiến tranh thế giới sẽ tác động lớn đến vận mệnh nhiều quốc gia và thân phận hàng trăm triệu con người thuộc nhiều màu da trên trái đất.
Và lần này, năm 2012, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đã ra Nghị quyết mới “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
 |
Tác phẩm Tự chỉ trích của đồng chí Nguyễn Văn Cừ. |
Thời điểm xuất hiện hai văn kiện có những điểm giống nhau và những điểm khác nhau. Giống nhau ở thời cuộc và nội bộ Đảng đòi hỏi phải kiện toàn về tổ chức để đưa phong trào cách mạng tiến lên. Khác nhau trước hết và căn bản ở chỗ, trước đây, Đảng ta bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và nay Đảng ta là Đảng đang cầm quyền. Thêm vào đó, nếu như tác phẩm Tự chỉ trích xuất hiện vì những sai lầm, yếu kém về tư tưởng chính trị và tổ chức được biểu hiện trong sự xem thường bọn Tờ-rốt-kít, hợp tác vô nguyên tắc với chúng và yếu kém trong công tác tuyên truyền vận động quần chúng dẫn đến sự thất bại trong cuộc bầu cử vào Hội đồng quản hạt Nam Kỳ (tức Hội đồng thuộc địa)… thì Nghị quyết 4, khóa XI xuất hiện khi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tệ tham nhũng… trong một bộ phận không nhỏ của cán bộ, đảng viên, kể cả ở cấp cao, ngày càng có chiều hướng trầm trọng hơn, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối với chế độ, mặc dù, Đảng đã ra nhiều nghị quyết, chỉ thị và phát động nhiều phong trào như Nghị quyết 6 (lần hai), khóa VIII, các Chỉ thị phát huy dân chủ ở cơ sở, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh…
2. Đọc Tự chỉ trích, rọi chiếu vào công tác xây dựng và tổ chức Đảng hiện nay
Trước hết là công tác tư tưởng. Như trên đã nói, tác phẩm Tự chỉ trích là một tác phẩm lý luận lớn không chỉ tổng kết thành quả cách mạng trong những năm 1936-1939, mà còn tiến hành cuộc đấu tranh tư tưởng công khai chống “tả khuynh”, chống hữu khuynh, chống bọn Tờ-rốt-kít và qua đó “giải bày cái cốt yếu của chiến sách Mặt trận Dân chủ mà Đảng Cộng sản đề xướng và đang thực hành”. Chúng ta đều biết, lúc đó, trong điều kiện hiếm thấy ở thuộc địa, một bộ phận Đảng ta, một đảng còn non trẻ, chủ yếu là hoạt động bí mật, chưa có nhiều kinh nghiệm trên chính trường, bên cạnh những thành tích và bản lĩnh vững vàng, cũng đã bộc lộ những sai phạm về chính trị, về tổ chức. Trong bối cảnh lịch sử cụ thể đó, Tự chỉ trích chỉ ra sự cần thiết “phải có can đảm mở to mắt ra nhìn sự thật” và “công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những lỗi lầm của mình và tìm phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu thỏa hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng, mà là làm cho Đảng được thống nhất, mạnh mẽ”(1). Trong công tác tư tưởng, Tự chỉ trích đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải phân biệt rạch ròi giữa cách mạng với cải lương, giữa cải lương với phản động, giữa cách mạng chân chính với “cách mạng đầu lưỡi” của nhóm Tờ-rốt-kít, giữa phần tử, cá nhân với đảng phái, giữa đảng phái, lãnh tụ với quần chúng, giữa liên minh bên dưới với liên minh bên trên…
Trong tình hình hiện nay, một bộ phận đảng viên đã có những biểu hiện phai nhạt lý tưởng mà chính họ đã tự nguyện lựa chọn và hiến dâng, hơn bao giờ hết việc giáo dục thường xuyên về lý tưởng chủ nghĩa cộng sản cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt những đảng viên có cương vị lãnh đạo, cần phải được quan tâm nhiều hơn nữa và thiết thực hơn nữa. Nếu không, sự phai nhạt lý tưởng đó sẽ khởi đầu cho sự tha hóa và biến chất về đạo đức không cưỡng lại trước sự tấn công của các thế lực thù địch bên trong, bên ngoài đang trăm phương nghìn kế muốn xóa bỏ hệ thống xã hội chủ nghĩa trên trái đất này. Suy cho cùng, mọi dạng tha hóa đều bắt nguồn từ sự phai nhạt lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Và vì thế, thiết nghĩ việc tự chỉ trích (ở đây ta hiểu là tự phê bình và phê bình) nên bắt đầu từ cuộc đấu tranh tư tưởng tin hay không tin sự tồn tại của chủ nghĩa Mác, của chủ nghĩa cộng sản trong thời đại ngày nay. Nếu những ai có những biểu hiện phai nhạt lý tưởng thì kiên quyết phải gạt bỏ để tổ chức Đảng có thể giảm về số lượng, nhưng đổi lại là thống nhất về ý chí và mạnh hơn, cái mà xưa nay là vũ khí tinh thần quan trọng nhất để thắng mọi loại kẻ thù.
 |
Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ (1912-1941). Ảnh tư liệu.
|
Vấn đề lớn thứ hai mà Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ đặt ra trong tác phẩn của mình là: “thế nào là tự chỉ trích Bôn-sê-vích”. Đây là một vấn đề không khó hiểu, nhưng thực sự khó thực hiện. Và đồng chí đã thẳng thắn nói rõ suy nghĩ của mình và cũng chính là một lần nữa khẳng định một trong những nguyên tắc tổ chức của Đảng ta về phê bình và tự phê bình: “Tự chỉ trích Bôn-sê-vích không phải là công kích Đảng, mạt sát Đảng, đặt danh dự cá nhân lên trên tất cả quyền lợi của Đảng, của cách mệnh” bởi vì mỗi đảng viên có quyền tự do thảo luận và chỉ trích, nhưng phải có nguyên tắc, nguyên tắc đó chính là “tự chỉ trích Bôn-sê-vích”, nghĩa là để huấn luyện quần chúng và giúp đỡ đảng viên tự huấn luyện, để làm tăng uy tín và ảnh hưởng của Đảng, để cho Đảng được càng thống nhất và củng cố, để đưa phong trào phát triển lên, đưa cách mạng tới thắng lợi; chớ không phải đặt cá nhân mình lên trên Đảng, phá hoại ảnh hưởng của Đảng, gieo mối hoài nghi, lộn xộn trong quần chúng, gây mầm bè phái chia rẽ trong hàng ngũ Đảng”. Ở một chỗ khác, đồng chí Tổng bí thư viết về nguyên tắc tự chỉ trích Bôn-sê-vích: “Công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những lỗi lầm của mình và tìm phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu thỏa hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng, mà là làm cho Đảng được thống nhất, mạnh mẽ. Làm như thế không sợ địch nhân lợi dụng, chửi rủa vu cáo cho Đảng, không sợ “nối giáo cho giặc”. Trái lại, nếu “đóng cửa bảo nhau” giữ cái vỏ thống nhất mà bề trong thì hổ lốn một cục, đầy rẫy bọn hoạt đầu, đó mới chính là để cho quân thù chửi rủa; hơn nữa, đó tỏ ra không phải một đảng tiên phong cách mạng, mà là một đảng hoạt đầu cải lương”. Đó chính là sự đòi hỏi rất cao của Tổng bí thư trong sinh hoạt Đảng, theo nguyên tắc phê bình, tự phê bình và tập trung dân chủ. Nguyên tắc sinh hoạt đó cần phải được tuân thủ một cách nghiêm túc trong điều kiện Đảng cầm quyền như hiện nay, nhưng thực tế đã bị buông lỏng, xuê xoa. Trong Tự chỉ trích, Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ thường nói tới bọn hoạt đầu (cơ hội), những kẻ gió chiều nào che chiều đó, xem thường quần chúng… Trong sinh hoạt Đảng hiện nay, người ta quên mất sự mạnh dạn, sự công khai, sự thành thật khi phê bình đồng chí của mình, chi bộ mình, mà thường biểu hiện theo ba khuynh hướng: 1, Phê bình bằng những lời đao to búa lớn, đặt cá nhân mình lên trên tất cả và mang nặng chủ nghĩa công thần; 2, Số đông ở trong trạng thái dĩ hòa vi quý, xuê xoa cốt đảm bảo “sự đoàn kết, thống nhất” của tổ chức; 3, Một số ít hết lời ca ngợi lãnh đạo mong tìm được cái lợi cho riêng mình, mà quên đi lợi ích chung. Suy cho cùng, phê bình và tự phê bình của chúng ta hiện thời chẳng khác mấy những lời mà Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ đã chỉ ra trong Tự chỉ trích: “Chỉ trích cũng có nhiều thứ: có thứ chỉ trích theo kiểu Tờ-rốt-kít, nghĩa là chửi rủa, vu cáo để phá hoại phong trào; nhưng có thứ chỉ trích của người cách mạng tìm tòi những lỗi lầm của mình, nghiên cứu phương pháp để sửa đổi, để tiến lên, có thứ chỉ trích của người cách mạng vạch mặt nạ bọn phản động; có thứ chỉ trích thân mật những chỗ nhu nhược của bạn đồng minh; có thứ chỉ trích nghiêm khắc kẻ long lay, do dự để mong kéo họ về. Chúng ta không vu cáo như bọn Tờ-rốt-kít. Chúng ta không cãi vã những chuyện nhỏ nhen. Chúng ta là người cách mạng, chúng ta đứng về lợi ích về công cuộc của dân chúng mà chỉ trích những khuyết điểm, những chỗ lừng chừng hoặc hèn nhát để đẩy phong trào phát triển mạnh mẽ rộng rãi hơn”.
Những chỉ dẫn của Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ trong Tự chỉ trích vẫn còn mang hơi thở thời đại. Vì thế, trong Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI, kế thừa những nguyên tắc phê và tự phê trong Tự chỉ trích, Trung ương Đảng đã đưa ra hai bước: Những việc cần làm ngay: “Từng cán bộ, đảng viên, trước hết là từng đồng chí Ủy viên Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư tự giác gương mẫu tự phê bình kiểm điểm, nhìn lại mình, tự điều chỉnh mình…, cảnh giác trước mọi cám dỗ về danh lợi, vật chất, tiền tài, tránh rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, tệ hại”(2). Và với những việc cần phải có thời gian chuẩn bị thì khẩn trương nghiên cứu, tổng kết, đề xuất để đi đến quyết định và thực hiện.
Điều mới của việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI lần này là kiên quyết hơn, có bài có bản hơn và lồng ghép với phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
-----
(1). Những đoạn trích dẫn trong bài viết này đều lấy từ cuốn Tự chỉ trích của Trí Cường, in trong Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 6.
(2). Nguyễn Phú Trọng. Tạo bước chuyển thực sự trong công tác xây dựng Đảng. Tạp chí Tuyên giáo. Số 1/ 2012, tr.7.
PGS.TS Phạm Xanh