Cùng đi với đồng chí Hoàng Quốc Việt có đồng chí Phan Thêm (tức Cao Hồng Lĩnh, người Quảng Nam). Ông Lĩnh từng là đặc phái viên của Trung ương vào Sài Gòn hướng dẫn việc bầu đại biểu đi dự Hội nghị Tân Trào, nên nắm được tình hình miền Nam. Rời Tuyên Quang ngày 17-8, sau khoảng 10 ngày đi bằng nhiều phương tiện khác nhau, đoàn vào đến Nam Bộ khi đã có những dấu hiệu căng thẳng. Ngày 2-9-1945, trong lúc Thủ đô Hà Nội tổ chức Lễ Độc lập, Bác Hồ trịnh trọng tuyên bố với thế giới nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, tại Nam Bộ, ta cũng tổ chức mít tinh lớn mừng ngày độc lập. Vậy mà súng nổ và máu của nhân dân đã đổ ngay trong ngày này.
Ngày 6-9-1945, phái bộ Anh bắt đầu đến Sài Gòn. Chúng thực hiện thiết quân luật, chỉ huy quân Nhật làm nhiệm vụ cảnh sát kiểm soát thành phố và đòi các lực lượng vũ trang của ta phải nộp vũ khí. Trắng trợn hơn, chúng đòi đóng bản doanh ở Nam Bộ phủ, trụ sở của Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ. Rõ ràng ngay từ ngày đầu, quân Anh đã tỏ thái độ can thiệp, làm ngơ để bọn khiêu khích người Pháp tiến hành các hành động gây hấn. Bằng đường không, những đơn vị quân Anh-Ấn thuộc Sư đoàn 20 dưới quyền chỉ huy của tướng Anh Gracey-Trưởng phái bộ Đồng minh đổ quân xuống Sài Gòn. Trong bản thông cáo số 1, tướng Gracey khẳng định quyền duy trì trật tự của quân Anh, ra lệnh cấm mang vũ khí và tuyên bố những ai vi phạm các quy định của y sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, kể cả xử bắn. Quân Anh tới chiếm trại giam, thả tất cả lính Pháp nhảy dù xuống Nam Bộ sau ngày khởi nghĩa bị ta bắt giữ; gần 1.500 lính lê dương Pháp của Trung đoàn bộ binh thuộc địa số 11 cũng được chúng đưa ra khỏi trại tù binh Nhật và trang bị lại.
    |
 |
Nhân dân mít tinh phản đối phái bộ Anh giúp đỡ thực dân Pháp dùng vũ lực chiếm đóng Nam Bộ phủ, năm 1945. Ảnh tư liệu
|
Đêm 22, rạng ngày 23-9, lính Pháp của Trung đoàn 11 cùng một đơn vị lê dương mới từ Pháp sang được quân Anh, Nhật yểm trợ, đổ xô ra các ngả đường. Chúng đánh chiếm các đồn công an của ta và bắn giết đồng bào. Bọn quan cai trị cũ và những kiều dân Pháp cũng được trang bị vũ khí. Lính lê dương ở thuộc địa và những tên thực dân Pháp trước đây từng ngoan ngoãn đầu hàng quân Nhật đã vô cùng dã man trong việc tàn sát, ngược đãi người dân Việt Nam tay không. Đặc biệt nghiêm trọng là sự việc quân địch nấp trong Nhà thờ Đức Bà bắn vào đoàn biểu tình của quần chúng làm gần 500 người ngã xuống...
Sau khi viết bức điện khẩn với nội dung: “Thưa Bác và các anh, đêm qua, 22-9, Pháp nổ súng chiếm Sài Gòn. Đảng bộ và nhân dân Nam Bộ đã sẵn sàng đối phó” giao cho đồng chí Lĩnh chuyển về Hà Nội, đồng chí
Hoàng Quốc Việt cũng nhanh chóng tới đường Cây Mai họp với Xứ ủy và Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ. Trong hồi ký, đồng chí Hoàng Quốc Việt kể: “Hội nghị diễn ra sôi nổi, nhiều đồng chí phát biểu đến hai, ba lần, với hai luồng ý kiến: Một là chưa đánh ngay, kháng cự cầm chừng với quân Đồng minh. Hai là kiên quyết đánh. Cuối cùng, hội nghị nhất trí quyết định động viên toàn dân kháng chiến, cứu nước. Trong điện báo cáo lên Trung ương và Bác tình hình, công việc, chúng tôi có nói rõ đã lập Ủy ban Kháng chiến (do đồng chí Trần Văn Giàu làm chủ tịch-PV) lo việc quân sự, ra lệnh tổng bãi công trong công nhân, thực hiện kế hoạch phá đường giao thông, tiếp tế để bao vây quân địch và kêu gọi toàn quân, toàn dân chiến đấu. Ở Sài Gòn, việc liên lạc với Hà Nội gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, chúng tôi đón chủ trương của Bác và Trung ương chủ yếu qua đài phát thanh. Khi Bác và Trung ương phát lời kêu gọi, chúng tôi biết mình phải làm gì...”.
Những ngày ấy sục sôi không khí căm thù, các chiến sĩ tự vệ và đồng bào Sài Gòn với mọi thứ vũ khí có trong tay chiếm các vị trí chiến đấu, kiên quyết đánh trả bọn xâm lược. Theo lời kể của nhiều nhân chứng được ghi lại trong cuốn “Mùa thu rồi ngày hăm ba: Độc lập hay là chết” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 1996), ngay chiều 23-9, nhân dân Sài Gòn triệt để tổng đình công, bất hợp tác với giặc Pháp. Các công sở, nhà máy đều đóng cửa. Chợ không họp, xe cộ ngừng chạy. Chướng ngại vật dựng lên khắp nơi. Các đội tự vệ xung phong đột nhập sân bay Tân Sơn Nhất, đốt cháy tàu Pháp vừa cập bến, phá Khám Lớn, giải thoát cho đồng bào bị giặc giam giữ.
Trong khi đó, tại Hà Nội, nhận được điện của Xứ ủy, Bác và Thường vụ Trung ương họp khẩn cấp, nhất trí với chủ trương, quyết định tiến hành cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp, bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, đáp ứng đúng nguyện vọng của nhân dân cả nước, thà chết chứ không chịu làm nô lệ. Trung ương quyết định thành lập những đơn vị Nam tiến vào giúp đồng bào Nam Bộ chiến đấu. “Cả ngày 25-9 cho đến thâu đêm, Bác và Thường vụ Trung ương Đảng theo dõi từng giờ tình hình Nam Bộ và ra những chỉ thị kháng chiến đầu tiên cho Đảng bộ và đồng bào Nam Bộ. Hôm sau, đứng trên vị trí chiến đấu của mình giữa thành phố, quân và dân Sài Gòn đã nghe lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đài Tiếng nói Việt Nam truyền đi từ Thủ đô Hà Nội”-Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết trong hồi ký.
Hôm đó, cả Nam Bộ đã lắng nghe tiếng nói Bác Hồ. Người tin và khẳng định đồng bào cả nước đều tin vào lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam Bộ: “Tôi chắc và đồng bào Nam Bộ cũng chắc rằng Chính phủ và toàn quốc đồng bào sẽ hết sức giúp những chiến sĩ và nhân dân hiện đang hy sinh tranh đấu để giữ vững nền độc lập của nước nhà”.
    |
 |
Đồng chí Hoàng Quốc Việt (hàng sau, thứ hai, từ phải sang) tại Việt Bắc, năm 1949. Ảnh tư liệu |
Quyết tâm biến lời kêu gọi của Bác thành ý chí và hành động quyết chiến quyết thắng, dù trong hoàn cảnh hết sức vất vả, Xứ ủy, Ủy ban Kháng chiến và Kỳ bộ Việt Minh Nam Bộ tích cực đi các địa phương kiểm tra, chỉ đạo công việc kháng chiến. “Chỉ trong vài ngày, giai cấp công nhân Sài Gòn lập xong 350 đội xung phong công đoàn và đội tự vệ. Chẳng mấy chốc, gần 140 xí nghiệp và công sở, hơn 20 kho tàng, gần 20 đầu máy xe lửa, hơn 50 tàu và 200 xe ô tô của Pháp bị phá hủy. Trong xưởng máy, công nhân làm việc suốt ngày đêm rèn giáo, mác, cuốc, xẻng phục vụ chiến đấu. Khi quân Pháp áp sát Sài Gòn, lập tức công nhân tìm mọi cách chuyển máy móc, thiết bị ra ngoài, thành lập tại Di An và An Phú Đông hai công binh xưởng lớn, kịp thời sản xuất vũ khí đánh địch. Thanh niên và thiếu nhi Sài Gòn chiến đấu với tinh thần “bóp nát quả cam” noi gương Trần Quốc Toản năm xưa. Cả Sài Gòn vào trận với khí thế hào hùng chưa từng thấy trong lịch sử giữ thành từ khi Pháp sang xâm lược”-trong hồi ký, đồng chí Hoàng Quốc Việt nhớ lại.
Chiến sự ngày càng ác liệt. Những tàu chiến khổng lồ từ bên kia đại dương ùn ùn kéo đến nước ta. Quân Pháp ngày càng lấn tới, cùng quân Anh đánh nống ra các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Chúng thực hiện âm mưu chia cắt, khóa chặt mối liên hệ giữa bên trong và bên ngoài Sài Gòn, nhưng đều bị các lực lượng của ta chặn đánh, tiêu diệt nhiều sinh lực. Bị giam chân trong thành phố, quân Pháp bị ta dồn vào thế quẫn bách, thiếu lương thực, thực phẩm, vũ khí, muốn gặp Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ điều đình. Sau khi xin ý kiến và Bác nhất trí, đồng chí Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Bạch và Phạm Ngọc Thạch đã gặp đại diện Anh, Pháp tại Sài Gòn. Cuộc đàm phán diễn ra từ ngày 2 đến ngày 10-10-1945, nhưng đã thất bại.
Nhận thấy cần xây dựng lực lượng kháng chiến ở nông thôn và duy trì cơ sở trong thành phố, tiếp tục chiến đấu lâu dài, Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ rút các cơ quan đầu não về Đồng Tháp Mười và vùng lân cận xây dựng căn cứ. Tuy nhiên, trong lòng Sài Gòn, từng tốp vũ trang vẫn liên tiếp đột nhập đánh địch. Những chiến sĩ biệt động đi lùng bọn Việt gian để trừ khử. Lửa trong thành vẫn cháy. Tiếng súng trong thành vẫn nổ. Các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long hướng về Sài Gòn, tiếp sức cho Sài Gòn. Trên các nẻo đường, những chiếc xe chở lương thực, thực phẩm tiến về Sài Gòn cung cấp cho bộ đội chiến đấu. Những đơn vị Nam tiến từ Hà Nội, căn cứ địa Việt Bắc, các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ cũng đã hành quân vào tới mặt trận Sài Gòn, tiếp sức chiến đấu cho quân và dân Nam Bộ. Từ đây, bản anh hùng ca chiến trận vang lên mạnh mẽ. Dù khó khăn, gian khổ, hy sinh và có thể kéo dài, nhưng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta có lực lượng đoàn kết của cả quốc dân và cuộc đấu tranh của chúng ta là chính đáng!
BÍCH TRANG