14 giờ ngày 6-10-2011, gần 150 đại biểu có mặt trên Tàu HQ-996. Từ bến K20 (Đồ Sơn, Hải Phòng), đoàn bắt đầu “Hành trình theo dấu tích Đường Hồ Chí Minh trên biển-Học kỳ trên biển”, đi qua 6 địa danh lịch sử: Bến sông Gianh (Quảng Bình), bến Sa Kỳ (Quảng Ngãi), bến Vũng Rô (Phú Yên), bến Lộc An (Bà Rịa-Vũng Tàu), bến Thạnh Phong (Bến Tre), bến Vàm Lũng (Cà Mau) và kết thúc tại Lữ đoàn 125 (Vùng 2 Hải quân)-cảng Cát Lái (TP Hồ Chí Minh). Đêm trước hôm nhổ neo, tôi không tài nào chợp mắt. Sự hồi hộp xen lẫn niềm tự hào khiến tôi trằn trọc mãi, cho đến khi ánh sáng hửng lên ngoài cửa sổ, báo hiệu một ngày mới và một hành trình đặc biệt sắp bắt đầu.

leftcenterrightdel
Tác giả (bên trái) cùng đoàn đại biểu đi xuồng đến thăm các gia đình chính sách trên địa bàn bến Vàm Lũng (Cà Mau).   

Khi bình minh vừa chạm vào thành phố cảng, sau những hồi còi chào đất liền, Tàu HQ-996 từ từ rời bến K20. Trên bờ, những cánh tay vẫy chào cứ nhỏ dần, nhỏ dần trong màn sương. Tôi đứng nơi mạn tàu, gió ùa vào mặt mằn mặn, vừa thấy phấn khởi vừa thấy nôn nao. Bên cạnh, bác Trần Văn Soạn, cựu thủy thủ Tàu 605 đang lặng lẽ dõi mắt theo đường chân trời xa xăm. Mái tóc bạc của bác bay trong gió, đôi mắt ánh lên một nỗi niềm khó tả. Khi tôi khẽ hỏi, bác chỉ nói: “Ngày ấy, mỗi chuyến ra khơi, chúng tôi đều biết trước mặt là hiểm nguy, thậm chí cái chết. Nhưng không ai chùn bước, bởi miền Nam đang chờ...”. Chỉ một câu nói thôi nhưng tôi nghe như một bản nhạc hùng ca âm vang trong tiếng sóng vỗ khiến lòng rưng rưng.

Biển hôm ấy không hiền hòa. Cơn bão số 5 vừa tan để lại những con sóng bạc đầu cấp 6, cấp 7 liên tiếp ập vào mạn tàu, tung bọt trắng xóa. Tàu HQ-996, dù hiện đại và vững chãi, vẫn chao đảo như một chiếc lá nhỏ bé. Nhiều bạn trẻ trong đoàn mặt tái nhợt, nằm bẹp vì say sóng. Tôi cũng không thoát khỏi cảm giác choáng váng, bụng cồn cào, đầu óc quay cuồng. Giữa lúc mệt mỏi ấy, một bàn tay ấm đặt lên vai tôi. Bác Hoàng Gia Hiếu, cựu thủy thủ Tàu 41 bước ra, một tay bám lan can, tay kia cầm hộp mứt gừng. Bác chìa cho tôi miếng gừng nhỏ, miệng cười hiền hậu: “Ngậm đi cháu, hít thở sâu, nhìn ra đường chân trời. Sóng gió nào rồi cũng sẽ qua”. Tôi làm theo, vị cay lan tỏa nơi đầu lưỡi, lòng thấy ấm áp. Cơn say sóng dịu xuống, trong tôi dâng lên niềm biết ơn.

leftcenterrightdel
 Các đại biểu tham gia “Hành trình theo dấu tích Đường Hồ Chí Minh trên biển-Học kỳ trên biển” tại Bảo tàng Chứng tích chiến tranh.

Những ngày lênh đênh, biển khơi hiện ra trước mắt tôi trong muôn vẻ. Có sáng tinh mơ, mặt trời từ từ nhô lên, cả khoảng trời nhuộm vàng, mặt biển lấp lánh như dát bạc. Những cánh hải âu sải rộng đôi cánh trắng muốt, lượn vòng trên cao, tiếng kêu lảnh lót tan vào gió. Có đêm, chúng tôi thức trên boong, ngước nhìn bầu trời đầy sao, thấy mình nhỏ bé như một chấm sáng giữa vũ trụ bao la. Tiếng sóng vỗ rì rào, tiếng máy tàu ran ran, tất cả khiến tôi tưởng tượng ra những con tàu không số ngày xưa-lặng lẽ, im ắng, tránh mọi ánh đèn để giữ bí mật, nhưng trong lòng lại sáng rực một niềm tin.

Một buổi chiều mưa bụi, gió thổi phần phật, chúng tôi quây quần bên bác Nguyễn Đắc Thớ, nguyên máy trưởng Tàu 641. Bác kể, ngày ấy, những chuyến đi thường chọn lúc biển động mới xuất phát. Khi biển động, địch ngại ra khơi và ít tuần tra, đó là cơ hội để vượt vòng phong tỏa. Bác nhớ lại một lần gặp tàu Hạm đội 7 Mỹ. Để qua mắt chúng, anh em phải giả làm ngư dân nước ngoài: Người vá lưới, người phơi cá trên boong. “Chúng bám theo hai ngày, không thấy gì khả nghi, mới bỏ đi”. Bác cười hiền mà mắt ánh lên sự rắn rỏi. Tôi lặng người. Giữa biển khơi mênh mông, bằng mưu trí và sự gan dạ, những cựu thủy thủ đã đưa con tàu nhỏ bé vượt qua sự kiểm soát ngặt nghèo của kẻ thù.

leftcenterrightdel
Các đại biểu đến bến Vũng Rô (Phú Yên). 

Bác Thớ kể thêm về chuyến tàu tháng 11-1969, chở 50 tấn vũ khí vào Năm Căn, Cà Mau. Suốt một tuần vượt sóng dữ, khi tàu cập bến trong đêm, những chiến sĩ giải phóng đã òa khóc vì xúc động. Lúc ấy, mỗi người chỉ còn vài viên đạn. Những khẩu súng, những thùng thuốc nổ TNT từ hậu phương đến kịp thời đã góp phần làm nên thắng lợi của cả một mặt trận. Nghe bác kể mà mắt tôi nhòe đi. Lịch sử không còn là những dòng chữ trong sách giáo khoa mà là những giọt mồ hôi, nước mắt, máu xương của những con người cụ thể.

Hôm trở lại Vũng Rô, mảnh đất đã từng chở che, cưu mang mình, cựu thủy thủ Tàu 41 Hoàng Gia Hiếu rất xúc động. Thăm khu di tích lịch sử Vũng Rô, bác Hiếu tay run run, mắt ngấn lệ khi thắp nén hương tưởng nhớ các đồng đội đã anh dũng ngã xuống nơi đây. Đi trên cầu cảng kiên cố, bác Hiếu bồi hồi nhớ lại: “Tôi nhận nhiệm vụ là thủy thủ Tàu 41 khi tròn 20 tuổi. Chuyến đầu tiên tàu chúng tôi cập bến Vũng Rô ngày 28-11-1964. Tàu của chúng tôi đã vận chuyển được 3 chuyến vũ khí, hàng hóa vào đây. Kỷ niệm đáng nhớ nhất của tôi vẫn là chuyến đầu, anh em làm nhiệm vụ ở bến cứ ôm lấy chúng tôi rồi khóc, phải mất rất lâu mọi người mới lại bắt tay vào công việc chuyển vũ khí lên bờ. Sau gần 50 năm trở lại, tôi rất vui vì được gặp lại các đồng đội và thấy Vũng Rô đã có nhiều đổi thay. Bởi nơi này năm xưa chỉ là một vũng âm u rậm rạp, giờ đã thành bến cảng lớn và khu nuôi thủy hải sản quy mô của ngư dân, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho địa phương”.

Những ngày trên biển, tôi nhận ra rằng hành trình này chẳng khác nào một học kỳ đặc biệt. Thầy giáo là các cựu chiến binh tóc bạc, giáo án là ký ức chiến tranh, còn bài học là lòng quả cảm và sự hy sinh thầm lặng. Tôi nhớ mãi hình ảnh bạn Nguyễn Thị Thúy Hằng, sinh viên Đại học Huế, gương mặt nhợt nhạt vì say sóng, nhưng vẫn chăm chú nghe các bác cựu thủy thủ tàu không số kể chuyện về những ngày tháng vận chuyển vũ khí vào Nam.

leftcenterrightdel
Các cựu thủy thủ tàu không số gặp lại đồng đội tại bến Vàm Lũng (Cà Mau). Ảnh: THU AN 

Với riêng tôi, chuyến đi ấy còn là một bài học nghề nghiệp quý giá. Tôi nhận ra rằng, làm báo không chỉ là ghi lại sự kiện, mà là sống cùng nhân vật, lắng nghe bằng trái tim và thấu cảm bằng tất cả giác quan. Chỉ khi hòa nhịp cùng câu chuyện, trang viết mới có linh hồn. Chính những ngày lênh đênh sóng gió, cùng chia sẻ miếng gừng cay, cùng nghe các cựu thủy thủ Đoàn tàu không số kể lại những giây phút vượt qua hiểm nguy, gian khó trong tiếng sóng vỗ rì rào... tôi càng hiểu rõ giá trị của việc thâm nhập thực tế.

Con đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành dấu tích bất diệt. Nó không hiện hữu trên bản đồ mà nằm trong trái tim mỗi người Việt Nam, trong ký ức của những nhân chứng lịch sử và trong từng trang viết của những phóng viên như tôi. Gần 15 năm đã trôi qua kể từ chuyến đi ấy, mỗi lần cầm bút viết về biển, tôi lại mường tượng đến bóng dáng những con tàu không số, âm thầm rẽ sóng trong đêm. Tôi nhớ ánh mắt kiêu hãnh của các cựu thủy thủ, nhớ lát gừng cay dịu giữa cơn sóng dữ, nhớ những giọt nước mắt hạnh phúc của những người lính hải quân khi gặp lại nhau trên các điểm đoàn đi qua. Tôi hiểu rằng, lịch sử không chỉ để ngợi ca mà còn để tiếp sức. Quá khứ không chỉ để nhớ mà còn để soi sáng cho hôm nay và mai sau. Và chính từ chuyến đi năm 2011 ấy, tôi có thêm nhiều tư liệu quý giá về những thủy thủ của Đoàn tàu không số năm xưa đã góp phần làm nên con đường huyền thoại trên biển.