Những chiến công xuất sắc của ông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã được sử sách nhắc đến nhiều. Tuy nhiên, rất ít người biết, con đường đến với nhiệm vụ tình báo của ông đã bắt đầu từ những năm tháng “nước sôi lửa bỏng” của cuộc kháng chiến chống Pháp…

Chúng tôi tìm đến nhà riêng của tướng tình báo Sáu Trí, ở quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh. Vị tướng tình báo tài ba nay đã 91 tuổi, trải qua nhiều cơn bạo bệnh, sức khỏe ông giảm sút, nhưng trí tuệ vẫn còn minh mẫn. Vợ ông, bà Nguyễn Thị Minh, hơn ông 2 tuổi và vẫn còn khá khỏe mạnh. Trong giai đoạn khó khăn của cách mạng những năm 1952-1953, ông được Đặc khu ủy Sài Gòn-Chợ Lớn “chọn mặt gửi vàng”, cài vào hàng ngũ địch dưới vỏ bọc một cán bộ “hồi chánh Quốc gia” để hoạt động tình báo…

leftcenterrightdel
Đồng chí Đào Tấn Xuân (Năm Thành), quyền Tư lệnh kiêm Chính ủy Đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn, người trực tiếp tổ chức điệp vụ “thả hổ về rừng”. Ảnh tư liệu gia đình. 

Tướng Sáu Trí kể: Vào thập niên 1950, trong lúc phong trào cách mạng chống Pháp trên cả nước đang lên cao thì tình hình ở Đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn lại hết sức khó khăn. Cán cân lực lượng quá chênh lệch, lại thêm địch ngày càng tăng cường sức mạnh quân sự, đẩy mạnh các hoạt động truy lùng, tấn công Việt Minh nên hệ thống cơ sở cách mạng bị vỡ nặng. Lực lượng Công an Nam Việt, được sự bảo trợ của Pháp, đã thẳng tay đàn áp, lùng sục, bắt cán bộ ta. Hệ thống cơ sở cách mạng ở đặc khu bị đánh phá ác liệt, gây tổn thất nặng. Một số khu vực rơi vào khó khăn cực điểm. Tại Gò Vấp, năm 1952 có đến 200 cán bộ, quân, dân bị địch bắt và sát hại. Ở Trung Huyện, con số này lên đến gần 1.000. Những tổn thất liên tiếp khiến tâm lý hoang mang lan rộng, một số nơi có đến 90% người dân rời bỏ căn cứ...

Tại cuộc họp của Đặc khu ủy bàn biện pháp vượt qua khó khăn, đồng chí Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc), Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn-Chợ Lớn, nói:

- Nhiệm vụ kháng chiến đang đứng trước những thử thách, cam go toàn diện. Một trong những vấn đề cốt tử lúc này là phải tìm cách ngăn chặn hoạt động của bọn mật thám, Việt gian; phát hiện, truy bắt, xử lý những phần tử đầu hàng, phản bội...

Đồng chí Đào Tấn Xuân (Năm Thành), quyền Tư lệnh kiêm Chính ủy Đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn đề xuất phương án đưa người của ta cài cắm sâu vào các cơ quan đầu não của địch để nắm thông tin, phát hiện Việt gian, chỉ điểm, ngăn chặn tình trạng vỡ cơ sở cách mạng. Thường vụ Đặc khu ủy thống nhất cao với phương án tuyệt mật này. Đồng chí Mười Cúc giao cho đồng chí Năm Thành trực tiếp phụ trách.

Dò xuôi, tìm ngược, lựa tới, lựa lui… Năm Thành chọn ra dăm cái tên sáng giá trong hàng ngũ cán bộ thuộc quyền, ưu tiên những người có nghiệp vụ an ninh, quân sự, quân báo… Và cái tên sáng nhất là Nguyễn Văn Khiêm, Trưởng phòng Quân báo Đặc khu.

Lợi thế đặc biệt ở Nguyễn Văn Khiêm là có mối quan hệ khá thân thiết với Trần Bá Thành, Phó giám đốc Nha Công an Nam Phần. Vợ của Thành là chị em con dì của Khiêm. Mẹ Khiêm là con thứ năm. Mẹ vợ của Trần Bá Thành thứ ba, thường gọi là dì Ba. Sau khi sinh người con gái thứ hai, tên là Ba Sen, dì Ba lâm bệnh nặng, qua đời. Ba Sen được mẹ của Khiêm nuôi nấng từ lúc mới lọt lòng nên coi mẹ Khiêm như mẹ ruột. Ba Sen và Khiêm thân quý nhau từ nhỏ. Đến tuổi trưởng thành, Ba Sen gặp và kết duyên với Trần Bá Thành. Hai người đến với nhau trong nghèo khó, được dì Năm giúp đỡ nhiều nên Bá Thành rất nặng ân nghĩa với gia đình vợ. Cuối năm 1945, Thành bị Pháp bắt đi lính, làm mật thám và thăng tiến rất nhanh. Năm 1950 đã leo lên chức Phó giám đốc Nha Công an Nam Phần. Dù giữ chức vụ quan trọng trong lực lượng Công an của chính quyền thân Pháp, nhưng trong quan hệ gia đình, Trần Bá Thành là người trọng tình nghĩa. Năm 1947, trong một lần đi công tác, Khiêm bị Công an bốt Phú Lâm vây bắt. Biết tin, Bá Thành đã đến bảo lãnh, trả tự do cho Khiêm.

Nghe Nguyễn Văn Khiêm tâm sự, Năm Thành cảm thấy yên tâm, vỗ vai Khiêm, thân mật:

- Tình hình hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn. Nhiệm vụ tối quan trọng là làm sao bảo vệ được các cơ sở mật ở nội thành. Muốn vậy, chúng ta phải có được những thông tin quan trọng của địch để chủ động đối phó trong mọi tình huống. Chú vào được hàng ngũ địch, chắc chắn sẽ giúp cho Đặc khu ủy có được những thông tin quan trọng để chỉ đạo phong trào hiệu quả hơn, bảo vệ mạng lưới cơ sở tránh khỏi những tổn thất.

Khiêm đáp:

- Tui tính vầy! Tui sẽ đưa vợ về nhà để nuôi con, sau đó tui sang nhà dì Bảy ở quận Nhì, đánh tiếng với dì Bảy là cuộc sống kháng chiến cực khổ quá, chịu hổng nổi nên cùng vợ bỏ về, nhờ dì Bảy kiếm việc làm để có tiền nuôi vợ con. Dì Bảy là người vợ chồng Trần Bá Thành rất trân trọng, quý mến. Dì nói gì là chị Ba tui nghe răm rắp. Thấy tui khó khăn, thể nào dì cũng thương. Dì sẽ tác động với vợ chồng Trần Bá Thành để kiếm việc làm cho tui. Khi lọt vô được Nha Công an Nam Phần rồi, tui sẽ tùy cơ ứng biến.

Năm Thành gật đầu:

- Tôi đồng ý phương án của chú. Người đứng phía sau hỗ trợ chú, tạo cầu nối thông tin không ai làm tốt hơn cô Minh. Chú về trao đổi trước với vợ về nhiệm vụ sắp tới, tôi sẽ gặp động viên, giao nhiệm vụ cho cô ấy sau!

Mấy ngày sau, khi trời nhá nhem, Năm Thành chèo xuồng sát mép sông Vàm Cỏ Tây đến nhà vợ chồng Khiêm-Minh ở chiến khu, đón hai vợ chồng cùng đi vãn cảnh. Giữa mênh mông sông nước, không khí của tình anh em, đồng đội thêm thân tình, ấm áp. Năm Thành thủ thỉ:

- Vợ chồng cô chú bàn bạc với nhau thế nào rồi?

Khiêm đáp:

- Em thì sẵn sàng rồi anh Năm! Nhưng Minh chưa xuôi lắm. Cổ hổng muốn về thành!

Minh tiếp lời chồng:

- Em đã từ bỏ tất cả để ra chiến khu với cách mạng. Sống ở đây quen rồi, về thành hoạt động đơn tuyến, em sợ hổng kham nổi.

Năm Thành ngưng tay chèo, nhìn Minh:

- Cô Minh đã vào Đảng chưa nhỉ?

- Em vô Đảng lâu rồi mà, anh Năm!

Năm Thành cười:

- Là đảng viên thì việc của Đảng có được kêu khó, kêu khổ không?

Cô Minh mím môi:

- Dạ! Anh Năm đã nói vậy thì vợ chồng em xin nghe!

Bằng thái độ thân tình của một người anh, Năm Thành đã trao đổi, thống nhất với vợ chồng Khiêm-Minh những việc cần làm trong điệp vụ “thả hổ về rừng”. Theo đó, Minh sẽ tìm đường về Sài Gòn trước, bắn tin với gia đình, người thân là cuộc sống kháng chiến quá khổ cực, lại bị cách mạng “phân biệt đối xử” nên mất hết nhuệ khí, bỏ về Sài Gòn kiếm nghề làm ăn nuôi con, sau đó sẽ móc nối, nhờ gia đình đón chồng về sau.

leftcenterrightdel
Vợ chồng Thiếu tướng Nguyễn Văn Khiêm tại nhà riêng (tháng 3-2017) .

Cô Minh về Sài Gòn được mấy ngày thì đến ngày 7-3-1953, Nguyễn Văn Khiêm cũng “bỏ trốn” khỏi chiến khu trên chiếc xuồng nhỏ men theo kênh Bo Bo, kênh Xáng ra sông Vàm Cỏ Tây. Đến Bàu Trai, Đức Hòa, Khiêm lên bờ. Đúng hẹn, Minh cùng anh trai tên là Phát đã chờ sẵn. Minh đưa Khiêm bộ âu phục sang trọng, bảo Khiêm thay bộ đồ bà ba nhàu nhĩ rồi bước lên xe ô tô, Sài Gòn thẳng tiến. Từ giây phút này, trong con mắt của mọi người, Nguyễn Văn Khiêm là cán bộ kháng chiến ly khai, bỏ ngũ tìm về Sài Gòn đầu hàng, “hồi chánh Quốc gia”, tìm cơ hội “làm lại cuộc đời”...

Đúng như kịch bản đã dự kiến, dưới sự tác động của dì Bảy và chị Ba, Trần Bá Thành đã nhiệt tình giúp đỡ để Nguyễn Văn Khiêm có được cơ hội vào làm việc tại Nha Công an Nam Phần. Trần Bá Thành đã giúp Nguyễn Văn Khiêm có được bộ hồ sơ với cái tên Phạm Duy Hoàng. Trải qua hơn 20 cuộc thẩm vấn gắt gao, căng thẳng, Phạm Duy Hoàng bằng kinh nghiệm và khả năng ứng biến linh hoạt đã vượt qua các cửa ải để có được niềm tin của những kẻ đứng đầu các bộ phận, ban, ngành của Nha Công an, đặc biệt là người đứng đầu - Tướng Mai Hữu Xuân. Kẻ địch tin rằng, lý do Phạm Duy Hoàng rời bỏ hàng ngũ cộng sản là do bản thân thuộc thành phần tiểu tư sản, không được lực lượng kháng chiến tin dùng, bị nghi ngờ, phân biệt đối xử, giản chính nên bất mãn, bỏ trốn về thành. Cuối tháng 5-1953, Phạm Duy Hoàng được tuyển dụng vào Nha Công an Nam Phần, làm chân giúp việc ở bộ phận chuyên theo dõi các báo cáo về đảng phái, tôn giáo trong “Vùng quốc gia”. Giữa tháng 6-1953, cô Minh cải trang thành người buôn bán, tìm đường đến điểm hẹn tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, gặp người của Đặc khu ủy báo cáo tình hình, xin chỉ thị...

Hoạt động đơn tuyến trong lòng địch, bằng trí thông minh, lanh lợi, lại được nâng đỡ bởi người anh rể họ Trần Bá Thành, công việc của Phạm Duy Hoàng tiến triển khá thuận lợi. Lần lượt ông được đưa vào làm trợ lý tại các cơ quan nghiên cứu của địch, nơi tập trung nhiều tài liệu mật, từ trợ lý cấp phòng trực thuộc Nha Công an Nam Phần đến Văn phòng Tổng giám đốc Công an Cảnh sát toàn quốc. Có thời gian ông còn được điều sang công tác tại cơ quan an ninh của quân đội. Phạm Duy Hoàng đã cung cấp nhiều thông tin quan trọng, tối mật, giúp Đặc khu ủy có những chỉ đạo kịp thời, trừ khử nhiều thành phần Việt gian, chỉ điểm, bảo vệ an toàn những cơ sở cách mạng quan trọng, góp phần làm nên những huyền thoại về chiến công của lực lượng tình báo Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ...

Bài và ảnh: NGUYỄN THẾ TRUNG