Thủ đoạn “lật sử” bằng tư duy “giả định”
Lịch sử hào hùng của dân tộc và dòng chảy của thời gian đã hội tụ trong năm 2025 rất nhiều sự kiện trọng đại. Việc tổ chức các hoạt động kỷ niệm những ngày lễ lớn của dân tộc đã góp phần củng cố, bồi đắp tinh thần yêu nước, niềm tự hào, tự tôn dân tộc của toàn dân; nâng tầm cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Thế nhưng, bên cạnh dòng chảy chính nghĩa ấy, các thế lực thù địch và những kẻ mang tâm địa phản bội lại ráo riết đẩy mạnh các chiến dịch truyền thông nhằm “tẩy sử”, “lật sử”, gieo rắc tâm lý hoài nghi, gây nhiễu thông tin trên không gian mạng.
Trong khi cả nước ta kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2-9; kỷ niệm 80 năm Ngày Nam Bộ kháng chiến với tinh thần, tâm thế đầy tự hào, thì các đối tượng mang tư tưởng thù địch với đất nước lại tiếp tục “nhai lại” những luận điệu “tẩy sử” bằng tư duy “giả định”. Chúng rêu rao rằng, nếu Việt Minh không kháng Pháp thì đất nước đã tránh được những cuộc chiến “đẫm máu”, đã không có thương binh, liệt sĩ; nếu thuận theo Pháp bảo hộ thì Việt Nam ngày nay đã có thể trở thành một quốc gia giàu mạnh, phát triển, bởi Pháp đến Việt Nam là để “khai hóa văn minh”; nếu Việt Nam được dẫn dắt phát triển bởi văn hóa Pháp, văn minh Pháp thì chúng ta đã có thể trở thành một quốc gia phát triển văn minh...
Chúng còn lấy những giá trị bề nổi của một số quốc gia, vùng lãnh thổ thân Pháp và thuộc Pháp trong lịch sử để so sánh nhằm củng cố cho kiểu ngụy biện bằng tư duy “giả định”, lòe bịp những người thiếu hiểu biết, a dua, “theo đóm ăn tàn”. Những lập luận ngụy biện, mị dân ấy không mới, nhưng nó luôn được đám truyền thông mang tư tưởng thù địch sử dụng như một thứ “thuốc bổ trợ”, “thực phẩm chức năng”... nhằm đầu độc tư tưởng của những kẻ dao động, bất mãn, cực đoan, nhất là giới trẻ. Bản chất của nó là muốn đánh tráo sự thật lịch sử, phủ nhận thành quả cách mạng, hạ thấp sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Những kẻ mang tư duy “giả định” nhằm “tẩy sử”, “lật sử” đã cố tình không hiểu một sự thật hiển nhiên là thực dân Pháp không đến Việt Nam để “khai hóa văn minh”, mà đến để áp bức, bóc lột, khai thác tài nguyên, biến Việt Nam thành một “nhà tù lớn”. Lịch sử đã ghi dấu những chính sách tàn bạo của chủ nghĩa thực dân. Chúng đánh thuế nặng nề, cướp đoạt ruộng đất, đàn áp các phong trào yêu nước và bóp nghẹt mọi quyền tự do của người dân bản xứ.
Lịch sử không có chữ “nếu” và vận mệnh dân tộc không có chỗ cho tư duy “giả định”. Trong 8 thập kỷ qua, từ mùa Thu lịch sử năm 1945 đến Nam Bộ kháng chiến; từ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến công cuộc đổi mới và hội nhập... lịch sử dân tộc ta đã chứng minh chân lý, độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, không thể đánh đổi bằng bất kỳ sự “bảo hộ” hay “khai hóa” nào. Không có dân tộc thuộc địa nào được ban phát tự do, văn minh từ chính kẻ đi đô hộ, xâm lược. Chúng ta đã phải trả giá bằng những cuộc đấu tranh trường kỳ, hy sinh biết bao xương máu để giành cho được độc lập. Trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định đanh thép:
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Lịch sử là sự thật khách quan. Chiêu bài sử dụng tư duy “giả định” chỉ là trò đánh tráo khái niệm để phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận sự nghiệp cách mạng tất yếu của dân tộc. Đằng sau chữ “nếu” ấy là mưu toan chia rẽ lòng tin, kích động hoài nghi, gieo rắc tư tưởng lệ thuộc, “ru ngủ” lớp trẻ. Thủ đoạn không mới, nhưng rất nguy hiểm. Chúng ta cần nhận diện rõ để vạch trần âm mưu của các thế lực thù địch, củng cố vững chắc trận địa tư tưởng của lòng dân và nền tảng tư tưởng của Đảng.
Kiên định niềm tin, vững bước tương lai
Nhìn lại chặng đường 80 năm qua, chúng ta càng thấy rõ, không có độc lập dân tộc thì không thể có phát triển, không có vị thế của Việt Nam như ngày nay. Từ một đất nước bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, Việt Nam đã vươn lên trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, hội nhập quốc tế sâu rộng. Uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng tăng. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 13 quốc gia. Đó là thành tựu to lớn của cả dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là chân lý được thiết lập, phát triển dựa vào con đường độc lập, tự chủ của Việt Nam, hoàn toàn không có chỗ cho tư duy “giả định”.
Những ai viện dẫn mô hình của một số nước, vùng lãnh thổ để so sánh với Việt Nam cần nhớ rằng, hoàn cảnh lịch sử-chính trị-địa lý không có quốc gia nào giống nhau. Không thể lấy sự phát triển của nước này để gán cho nước khác. Mỗi dân tộc có hành trình riêng, nhưng tất cả đều có điểm chung, đó là không đất nước nào đạt tới thịnh vượng bằng cách cam chịu làm thuộc địa. Việt Nam có quan hệ hợp tác ngày càng sâu rộng, hiệu quả trên trường quốc tế chính là từ vị thế của một đất nước độc lập, có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, chứ không phải là món quà từ “bảo hộ” của bất kỳ ai.
Đáng chú ý, các thế lực thù địch không chỉ xuyên tạc quá khứ mà còn lợi dụng hiện tại để gieo rắc tâm lý “tự ti dân tộc”, kích động tâm trạng “lẽ ra đã khác”. Đây là thủ đoạn “diễn biến hòa bình” tinh vi trên mặt trận tư tưởng-văn hóa. Nếu không cảnh giác, một bộ phận người dân, nhất là giới trẻ, sẽ dễ bị cuốn vào những lập luận mị dân, dẫn đến phai nhạt lý tưởng. Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới của Đảng đã khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ”.
Câu chuyện “nếu như” này còn thể hiện sự thiếu hiểu biết sâu sắc về lịch sử và bản chất của chủ nghĩa thực dân, của những kẻ ngụy hàn lâm. Lịch sử đã chứng minh, các dân tộc bị thực dân đô hộ dù có được “khai hóa” đến đâu thì vẫn là những dân tộc lệ thuộc, không có chủ quyền, không có tiếng nói. Các dân tộc đó dù có phát triển kinh tế đến một mức nào đó, thì sự phát triển vẫn chỉ phục vụ cho lợi ích của chính quốc, chứ không phải cho lợi ích của nhân dân. Những quốc gia ở châu Phi được Pháp và phương Tây bảo hộ liên tục xảy ra đảo chính, bất ổn chính trị, trở thành “điểm nóng” của quốc tế... là những bài học nhãn tiền.
Sự hy sinh của thế hệ cha ông trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là để giành lại độc lập, tự do, để dân tộc Việt Nam được đứng ngang hàng với các dân tộc trên thế giới. Đó là sự lựa chọn duy nhất và đúng đắn. Lịch sử đã chứng minh, chúng ta đã giành được thắng lợi vẻ vang, không chỉ giải phóng dân tộc mà còn là giữ vững độc lập, chủ quyền.
Những kẻ mang tư duy “giả định” đã cố tình lãng quên sự thật lịch sử, cố tình bôi nhọ công lao của thế hệ cha ông. Chúng ta không thể để những luận điệu xuyên tạc này làm lu mờ sự thật lịch sử; phải kiên quyết đấu tranh, vạch trần âm mưu, thủ đoạn của những kẻ “nối giáo cho giặc”, xuyên tạc lịch sử, chống phá đất nước.
Việt Nam có lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Suốt chiều dài lịch sử, dân tộc ta luôn phải đối mặt với những cuộc xâm lược từ bên ngoài. Chúng ta không bao giờ chấp nhận sự lệ thuộc, sự bảo hộ của bất kỳ thế lực nào. Độc lập, tự do là khát vọng thiêng liêng và bất diệt của dân tộc Việt Nam.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc có một hoàn cảnh lịch sử, một con đường phát triển riêng. Con đường mà Đảng và nhân dân ta đã chọn là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là con đường duy nhất đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử và nguyện vọng của nhân dân. Thành quả của 80 năm qua là minh chứng hùng hồn nhất cho sự đúng đắn của con đường đã được Đảng và nhân dân ta lựa chọn. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên trở thành một quốc gia đang phát triển, có vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế. Chúng ta phải trân trọng, gìn giữ và bảo vệ lịch sử, không để bất kỳ ai xuyên tạc, bóp méo. Đó là trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam yêu nước.
PHAN NGUYỄN