Theo đó thì Đinh Liệt là “người ở sách (làng miền rừng núi) Thủy Luân, Lam Sơn”, không những là đồng hương với Lê Thái Tổ, mà còn là cháu gọi Lê Lợi bằng cậu ruột, đồng thời là em ruột của danh tướng Đinh Lễ. Khi Đinh Lễ hy sinh trong chiến dịch bao vây, giải phóng thành Đông Quan (1426-1427) ở Mai Động (ngày 4-4-1427), để tưởng thưởng công lao của người anh, Bình Định vương Lê Lợi cùng Bộ chỉ huy Phong trào Lam Sơn đã phong cho người em-là Đinh Liệt-chức “Nhập nội Thiếu úy” (hàm “Chánh Nhị phẩm”, ngang “Thượng thư”, cao hơn “Thượng tướng” trong quan chế đương thời) và tước là “Á Hầu” (xấp xỉ “Hầu tước”). Đến khi Phong trào Lam Sơn đại thành công trong sự nghiệp đuổi giặc Minh, Bình Định vương Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế Thuận Thiên (năm 1428), Đinh Liệt còn có vinh dự được “tứ quốc tính” cải họ Đinh thành họ Lê của vua, nên nhiều trường hợp được “vào” trong sử sách với tên gọi là “Lê Liệt”.
Theo gia phả họ Đinh thì Đinh Liệt sinh năm 1400, thuộc dòng dõi của cụ Đinh Chính Tâm, là con trai út (thứ năm) của Nam Việt vương Đinh Liễn, hoàng tử trưởng của Đinh Tiên Hoàng đế Bộ Lĩnh, ở Hoa Lư.
Đã hình thành ba giai đoạn cuộc đời và sự nghiệp của người đứng đầu 10 danh tướng thời Lê, vừa là hậu duệ của Đinh Tiên Hoàng, vừa là cháu của Lê Thái Tổ, như sau:
1- Giai đoạn tham gia Phong trào Lam Sơn
Phong trào yêu nước Lam Sơn được nhen nhóm từ Hội thề Lũng Nhai năm 1416. Tướng Đinh Liệt là người đã có mặt ở cuộc hội thề đó. Có nghĩa ông đã tham gia Phong trào Lam Sơn từ năm mới 16 tuổi. Trẻ tuổi vậy, nhưng suốt 10 năm đánh giặc xâm lược và đô hộ nhà Minh, dưới cờ Lam Sơn, những hoạt động hết sức tích cực của tướng quân Đinh Liệt đã được sách “Lịch triều hiến chương loại chí” rất tích cực nhưng hết sức gọn gàng mà đánh giá là: “Trải leo trèo núi non, chống đỡ lúc gian nguy, có rất nhiều chiến công”.
Hai trong số “rất nhiều chiến công” ấy là trận Đỗ Gia-Khả Lưu ở Nghệ An (năm 1424) bắt sống được Đô ty nhà Minh là Chu Kiệt, chém tướng tiên phong quân Minh là Hoàng Thành, giết chết và bắt sống binh lính nhà Minh nhiều vô kể, khí giới của địch quân quăng bỏ bừa bãi khắp núi non, hang động và trận Chi Lăng ở Lạng Sơn (năm 1427) “giết chết chủ tướng quân Minh là Tổng binh Chinh Lỗ tướng quân thái tử thái phó An Viễn hầu Liễu Thăng cùng hơn vạn binh mã giặc”-như lời sử cũ đã chép-mà Đinh Liệt đã tham gia, chỉ huy vào lúc 24 và 27 tuổi!
Vì thế, ở buổi đầu thời hậu chiến từ 28 đến 33 tuổi, trong vòng 5 năm trị vì của Lê Thái Tổ (1428-1433), Đinh Liệt-theo lời sách “Lịch triều hiến chương loại chí”-“coi quân ở đội Thiết Đột, có công đầu trong số những người theo giúp Phong trào Lam Sơn từ Hội thề Lũng Nhai, nên vào năm Thuận Thiên thứ nhất (1428) đã được phong “Suy trung tán trị hiệp mưu bảo chính công thần, Vinh lộc đại phu, Đại tướng quân vệ Kim Ngô, tước Thượng trí tự”. Đến năm thứ hai (1429) được Khắc biển phong công thần thứ hai, tước Đình thượng hầu. Đến năm 1433 được thăng “Nhập nội Tư mã, tham dự triều chính”.
2- Giai đoạn làm quan ở thời các vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông
Lê Thái Tông kế vị Lê Thái Tổ lúc 11 tuổi (năm 1434). Lê Nhân Tông được Đinh Liệt cùng các quan tôn lên ngôi lúc mới 2 tuổi (năm 1442), sau khi Lê Thái Tông chết một cách đầy bí ẩn (trong “Vụ án Lệ Chi Viên”). Dưới thời trị vì của các vị ấu chúa này, trong vòng 26 năm (1434-1460), Đinh Liệt đã trải qua một giai đoạn làm quan nhiều sóng gió ở triều đình Đông Kinh, do tệ nạn tha hóa, bè phái, tranh giành quyền lực và quyền lợi, giữa các đại công thần cũ và đám thân vương quý tộc mới.
Ở quãng thời gian 10 năm đầu (1434-1444) của thế cuộc lắm biến động ấy, Đinh Liệt có một lần được coi là lập võ công, khi được giao việc điều động và đứng đầu các quân Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa, đi tuần tra vùng biên giới phía Nam, nhằm xử lý những hành vi gây hấn của Chiêm Thành. Nhưng khi đưa quân tới nơi thì chúa Chiêm Thành là Bố Đề sợ uy đã rút lui, chỉ còn việc ở Châu Hóa, có tù trưởng Đạo Thành bị tù trưởng Đạo Luận đánh, đã cầu viện, Đinh Liệt bèn đem quân đến giúp, bắt được hơn nghìn người và vài chục con voi mang về.
Sau cuộc viễn chinh, thu được nhiều chiến lợi phẩm ở vùng dân tộc thiểu số Trường Sơn như thế, Đinh Liệt được thăng dần tới chức Thái phó, đứng thứ hai trong hàng “Tam Thái”-nhất phẩm triều đình. Nhưng đến năm 1444, ở giữa tuổi 40, ngôi vị cao quý này cũng chẳng thể giúp vị tướng quân công thần cựu trào thoát khỏi tai họa giáng xuống từ tay bà Thái hậu nhiếp chính Nguyễn Thị Anh-mẹ vua trẻ Lê Nhân Tông-trong vụ việc được sử cũ chép gọn: “Tháng Bảy, mùa thu, bắt giam Thái phó Lê Liệt vào ngục. Bấy giờ, những kẻ lúc họa ưa may, không có thực tài (nhưng lại) được dùng làm việc. Có đứa gièm pha Lê Liệt với Thái hậu, nên mới có lệnh bắt bỏ tù Lê Liệt và vợ con gia quyến của ông”.
Quan Thái phó Đinh Liệt bị hạ ngục cho đến tận năm 1448. Sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” chép: “Mùa hạ, tháng Sáu, tha Thái phó Đinh Liệt ra khỏi ngục. Lúc này, vụ án Đinh Liệt để kéo dài đã 4 năm, không xử dứt khoát được. Đến đây, quan Tông chính Lê Khắc Phục và công chúa Ngọc Lan tâu xin lựa uốn phép nước, mở rộng ơn trên. Bèn tha cho Lê Liệt, rồi lại tha cả vợ con của ông”.
Ra tù, được khôi phục vị thế đứng trong hàng “Tam Thái”, nhưng hạ xuống một bậc, thành quan Thái bảo, hẳn là Thái bảo Đinh Liệt biết ẩn nhẫn mà giữ mình lắm, nên suốt trong những năm 50 của thế kỷ 15, ở độ tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh”, không thấy sử cũ chép việc ông làm nên sự tích lớn lao nào.
3- Giai đoạn làm quan triều vua Lê Thánh Tông
Chính khả năng ẩn nhẫn rèn luyện được trong thời gian cuối đời trị vì của vua Lê Nhân Tông đã khiến Thái bảo Đinh Liệt biết nén mình, nín nhịn, để khi xảy ra cuộc đảo chính ngày mồng 3 tháng 10 (âm lịch) năm 1459 do Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân cầm đầu, giết hại cả vua Lê Nhân Tông lẫn Thái hậu Nguyễn Thị Anh để tiếm quyền đã kín đáo, âm thầm “bài binh bố trận” cùng một số trung thần nghĩa sĩ, trong vòng 8 tháng trời, tổ chức thành công cuộc “phản đảo chính” ngày mồng 6 tháng 6 (âm lịch) năm 1460, hạ bệ Lê Nghi Dân, đưa hoàng tử Lê Tư Thành lên ngôi, trở thành hoàng đế Lê Thánh Tông nổi tiếng, đồng thời mở ra một kỷ nguyên ổn định thịnh trị của triều đại nhà Lê.
Hai lần là công thần khai quốc (lần thứ nhất năm 1428, lần thứ hai năm 1460) đã khiến Đinh Liệt trở thành sủng thần số một của nhà vua và triều đại Lê Thánh Tông. Ngay vào tháng 6 (âm lịch) năm 1460, ở tuổi chẵn một hoa giáp, Đinh Liệt đã được tiến phong “Khai phủ nghi đồng tam ty, Bình chương quân quốc trọng sự, Nhập nội Thái phó, Á Quận hầu” kèm bài “Chế” vua ban, với những câu đánh giá và ngợi khen không thể hay hơn: “Kế ở miếu đường, mưu ở biên cương, vừa tướng văn, vừa tướng võ… Công lao và chức vị càng to, nơi nơi xa gần ai cũng thấy. Dẫu lời gièm pha không dứt như tiếng nhặng xanh vo ve, nhưng biết rằng âm đức không có vết xấu… Khen lòng trung trinh của ngươi làm cột đá cho thời bây giờ”…
Những năm sau đấy, làm cột trụ cho triều đình Đông Kinh ở thời hoàng kim, là những năm đắc ý nhất trong cả cuộc đời người hai lần khai quốc Đinh Liệt. Với chức Thái phó có thêm hai chữ “Nhập nội” (biểu thị sự được trọng vọng tín cẩn), đến cuối năm 1460, Đinh Liệt được chép vào chính sử với sự tích và công tích vẻ vang: Vâng mệnh vua Thánh Tông, dẫn quân đi đánh thắng giặc “Cầm Man” (ở phía tây miền Bắc Trung Bộ). Tới cuối năm 1470, trong dịp vua Lê Thánh Tông đem 26 vạn tinh binh đi đánh Chiêm Thành, Đinh Liệt lại đã “vào” trong chính sử lần nữa, với chức tước và nhiệm vụ đầy đủ, cụ thể là: “Chính Lỗ tướng quân, Thái sư, Lân quận công, dẫn 10 vạn thủy quân ba phủ vệ Đông, Nam, Bắc, đi tiên phong”.
Tể tướng (Thái sư) Quận công đất Trà Lân (Lân quận công) Đinh Liệt, thọ chẵn 6 kỷ (72 tuổi ta), mãn nguyện về cõi vĩnh hằng vào năm 1471. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” có đoạn tổng kết xác đáng cuộc đời và sự nghiệp của người đứng đầu 10 danh tướng đời Lê (gồm những tên tuổi lẫy lừng: Đinh Liệt, Nguyễn Xí, Trần Nguyên Hãn, Lê Sát, Lê Ngân, Lưu Nhân Chú, Trịnh Khả, Phạm Vấn, Lê Khôi, Lê Niệm) như sau: “Ông là người có công to từ khi mới mở nước (ở đời vua Lê Thái Tổ). Trải thờ bốn triều (vua đầu nhà Lê là Thái Tổ, sau đó lần lượt là Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông). Lại là công thần bậc nhất buổi trung hưng (triều đại Lê Thánh Tông). Chức vị và đức vọng đều cao vút. Từ năm Quang Thuận thứ 5 (tức năm 1465) trở đi, làm Tể tướng gần 10 năm, quyết đoán những mối ngờ lớn, quyết định những việc bàn bạc lớn. Được vua rất tin cậy. Trong triều ngoài nội đều tôn trọng”.
GS LÊ VĂN LAN