Theo Nguyên sử An Nam truyện và một số tài liệu tiếng Việt ghi thủ lĩnh tên là Nguyễn Lộc, còn “Đại Việt sử ký toàn thư” cùng một số tài liệu tiếng Việt khác lại ghi là Nguyễn Thế Lộc. Căn cứ vào các chi tiết về diễn biến và địa danh hoạt động do lực lượng thổ binh ở vùng miền núi Lạng Sơn thực hiện, có thể khẳng định: Nguyễn Lộc hay Nguyễn Thế Lộc là một hào trưởng, dân tộc Tày, ở Lạng Giang (nay thuộc tỉnh Bắc Giang, có thể đây là quê của Nguyễn Thế Lộc)(1).

Nguyễn Thế Lộc sinh năm nào cho đến nay vẫn chưa có tài liệu nào ghi cụ thể(2). Mặc dù các tài liệu còn lại đến nay ghi chép sơ lược, vắn tắt, nhưng đều có phần lược thuật các hoạt động quân sự của Nguyễn Thế Lộc trong cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên xâm lược.

Trước hết, trong cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên lần thứ nhất (năm 1258), trước sự chuyển quân của địch ở bên kia biên giới, Nguyễn Thế Lộc cùng Nguyễn Lĩnh tập hợp lực lượng tổ chức thành đội thổ binh của nhân dân các dân tộc miền núi và trở thành thủ lĩnh chỉ huy, hoạt động tại châu Thất Nguyên (nay thuộc huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn), sẵn sàng đánh giặc giữ nước. Kết thúc lần kháng chiến thứ nhất, tuy chưa trực tiếp đánh giặc nhưng Nguyễn Thế Lộc đã được triều đình nhà Trần phong chức Quản quân(3) và tiếp tục chỉ huy lực lượng thổ binh ngày càng phát triển mạnh mẽ ở vùng Lạng Sơn.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên lần thứ hai (năm 1285), triều đình nhà Trần không để lực lượng thổ binh giao chiến với địch khi chúng vượt biên giới tràn sang. Bởi vì đối tượng tác chiến của quân dân Đại Việt là đội quân viễn chinh bằng kỵ binh, từng chinh phục nhiều quốc gia ở châu Âu, châu Á, mục tiêu xâm lược trước tiên của chúng là tiêu diệt bằng được quân chủ lực ta. Do đó, chỉ đến khi quân Mông-Nguyên tiến sâu vào nội địa ta, vua tôi nhà Trần mới sử dụng lực lượng thổ binh tiến công vào phía sau lưng chúng. Khi quân Mông-Nguyên tiến công xâm lược, với cương vị là Quản quân, Nguyễn Thế Lộc được triều đình tin cậy giao chỉ huy lực lượng thổ binh Tày, Nùng, phối hợp với một bộ phận quân chủ lực của triều đình đánh chặn quyết liệt ở vùng châu Thất Nguyên, gây cho chúng một số thiệt hại.

leftcenterrightdel
 Minh họa: MẠNH TIẾN

Quân xâm lược vượt qua Lạng Sơn tiến xuống chiếm Thăng Long và một số địa bàn quan trọng, nhưng chúng không thể kiểm soát được các vùng đã chiếm. Các lực lượng ở lại sau lưng địch, trong đó có đội thổ binh do Nguyễn Thế Lộc chỉ huy rút vào sâu trong rừng để bảo toàn lực lượng, vừa thực hiện chiến lược “lấy nhu thắng cương”, vừa tuân thủ mệnh lệnh của triều đình: “Tất cả các quận, huyện trong cả nước, nếu có giặc ngoài đến đều phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi, thì cho phép lẩn tránh, không được đầu hàng”(4). Nguyễn Thế Lộc cùng Nguyễn Lĩnh chỉ huy đội thổ binh dùng mưu lấy cỏ bện thành hình người và dùng dây điều khiển “người đó” giơ tay chân như thật. Theo ông giải thích “do quân ta ít người nên phải làm thêm người cỏ cho nó đông”. Lực lượng thổ binh của Nguyễn Thế Lộc từ châu Thất Nguyên mở rộng địa bàn hoạt động ra cả một vùng rộng lớn, từ trại Vĩnh Bình (các huyện Văn Lãng, Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn ngày nay) cho đến ải Chi Lăng (huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn)(5).

Trong chiến đấu, Nguyễn Thế Lộc thường dùng chiến thuật phục kích bất ngờ, hoặc cho giặc đi qua, sau đó nhanh chóng cho quân ta đánh vào phía sau đội hình của chúng. Nhiều toán quân địch đi tuần tra, vận chuyển lương thực đã bị lực lượng thổ binh của Nguyễn Thế Lộc tập kích cả ban ngày và ban đêm, khiến chúng hết sức hoang mang, lo sợ, ăn ngủ không yên, luôn phải lo đối phó. Có lần địch tập trung lực lượng lớn mở cuộc tiến công, Nguyễn Thế Lộc biết trước đã chủ động phân tán lực lượng thổ binh vào trong rừng, không đụng độ với chúng. Đến khi địch rút, ông tổ chức cho quân ta chặn đánh bất ngờ ở các cửa rừng, khiến giặc gọi đội quân của Nguyễn Thế Lộc là “đội quân ma”, “xuất quỷ nhập thần”(6).

Trước thế giặc mạnh, một số vương hầu nhà Trần có đội quân cũng khá mạnh, nhưng chưa đánh đã đầu hàng. Nhận được tin Thoát Hoan sai viên tướng Lý Tích Ban đưa bọn Việt gian đầu hàng phản bội, trong đó có Trần Kiện về Trung Quốc, tháng 5-1285, Nguyễn Thế Lộc liền báo cho cánh quân triều đình đang cắm chốt ở địa phương biết để phối hợp đánh chặn giặc ở trại Ma Lục (huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn ngày nay). Quân địch vừa đến địa phận trại Ma Lục, đội thổ binh do Nguyễn Thế Lộc chỉ huy đã phối hợp với một bộ phận quân triều đình chặn đánh quyết liệt, diệt tên phản bội Trần Kiện và đội quân hộ tống do Lý Tích Ban chỉ huy bị bắn chết gần một nửa(7), khi chúng định chạy về nước xin viện binh. Chiến thắng Ma Lục của đội thổ binh do Nguyễn Thế Lộc chỉ huy có ý nghĩa vô cùng quan trọng, khiến quân địch ngày càng suy yếu, khiếp sợ và đã góp phần tạo điều kiện để quân dân Đại Việt chuyển sang giai đoạn phản công và tiến công tiến tới kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên lần thứ hai.

Đến kháng chiến lần thứ ba (1287-1288), khi cánh quân địch do Thoát Hoan chỉ huy tiến công ồ ạt vào Lộc Bình (Lạng Sơn), đội thổ binh của Nguyễn Thế Lộc ở trại Ma Lục rút vào rừng để bảo toàn lực lượng, sau đó tiến ra tập kích bất ngờ tiêu hao sinh lực địch, khiến chúng hết sức lo sợ, phải tìm cách đề phòng, đối phó. Khi các cánh quân của Thoát Hoan đã tiến về phía Thăng Long, một bộ phận quân Mông-Nguyên còn lại ở châu Tư Minh (Quảng Tây, Trung Quốc) cùng bọn Việt gian Lê Trắc, theo đường Thoát Hoan vừa đi qua, cũng tiến vào Lạng Sơn.

Thường xuyên theo dõi và nắm bắt tình hình địch, Hưng Đạo Vương lệnh cho đội thổ binh do Nguyễn Thế Lộc chỉ huy phục kích ở ải Nội Bàng (nay thuộc khu vực huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang), sẵn sàng đánh chặn giặc. Ngày 1-2-1288, khi cánh quân Mông-Nguyên dẫn bọn Việt gian vào đến khu vực Nội Bàng thì bị quân ta đánh chặn. Địch chống trả quyết liệt và tiến sâu vào nội địa ta. Khi chúng đến gần sông Bình Giang thì bị quân ta dồn đuổi, đánh thiệt hại nặng, buộc chúng đốt phá nhà cửa của dân, rồi bày trận quay lưng ra sông hòng ngăn chặn ta tiến công.

Biết được ý đồ của giặc, Nguyễn Thế Lộc dùng thế trận “lưỡng xà” để đối phó. Ông cho quân phục sẵn hai bên bờ sông rồi đánh ép hông mở đường trước mặt cho địch rút chạy; nghĩa là không dồn giặc vào thế cùng, để chúng liều chết đánh trả quyết liệt, có thể gây cho quân ta khó khăn, thậm chí tổn thất lớn. Đúng theo kế của Nguyễn Thế Lộc, thấy phía trước có đường thoát, quân địch không cố ý quyết chiến, mà mạnh tên nào tên ấy chạy để tìm cách thoát thân. Quân ta đuổi đánh suốt một ngày đêm, khiến quân địch không được nghỉ do phải thường xuyên lo đối phó. Đến gần sáng, thế quân địch bị ta đánh tan, hàng nghìn tên bị diệt, chỉ còn 60 kỵ binh sống sót được bọn Việt gian dẫn đường tháo chạy qua biên giới, đến ngày mồng 1 Tết Mậu Tý (ngày 3-2-1288) về tới châu Tư Minh (Quảng Tây, Trung Quốc)(8).

Như vậy, đội thổ binh của Nguyễn Thế Lộc đã phối hợp với quân triều đình phá tan âm mưu của quân Mông-Nguyên đưa một số hoàng tộc nhà Trần về Trung Quốc hòng lập triều đình bù nhìn. Kết thúc cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên lần thứ ba, Quản quân Nguyễn Thế Lộc, thủ lĩnh chỉ huy lực lượng thổ binh vùng Lạng Sơn được phong tước Hầu và trở thành chỗ dựa vững chắc của triều đình nhà Trần ở vùng đất phên giậu phía Bắc của Tổ quốc(9). Tuy tư liệu và sự kiện về Nguyễn Thế Lộc, một thủ lĩnh của các dân tộc miền núi vùng Lạng Sơn tài ba, dũng cảm đóng góp trong cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên thế kỷ 13 còn rất khiêm tốn, nhưng cũng đủ để chúng ta ghi nhận công lao và cống hiến của ông cho lịch sử quân sự dân tộc. Ông đã có những đóng góp xứng đáng trong 3 lần quân và dân Đại Việt tiến hành kháng chiến chống quân Mông-Nguyên thắng lợi hồi thế kỷ 13.

Đại tá, TS DƯƠNG ĐÌNH LẬP

(1) Bách khoa thư quân sự Việt Nam, quyển 1: Lịch sử quân sự, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (Nxb QĐND), xuất bản năm 2015, tr.778

(2) Danh nhân quân sự Việt Nam, tập 1, Nxb QĐND, H.2004, tr.295

(3) Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, H.2004, tr.725

(4) Dẫn theo: Lịch sử tổ chức quân sự Việt Nam, tập 1, Nxb QĐND, H.2010, tr.439

(5) Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống phong kiến Trung Quốc xâm lược, Nxb QĐND, H.1984, tr.391

(6) Bách khoa thư quân sự Việt Nam, quyển 1: Lịch sử quân sự, Nxb QĐND, H.2015, tr.778

(7) Việt Nam những sự kiện quân sự từ buổi đầu dựng nước đến thế kỷ 15, Nxb QĐND, H.2008, tr.218

(8) Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, H.2019, tr.245

(9) Danh nhân quân sự Việt Nam, tập 1, Nxb QĐND, H.2004, tr.301