Trần Xuân Soạn sinh năm 1849, trong một gia đình nông dân nghèo ở thôn Thọ Hạc, tổng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa (nay là phường Đông Thọ, TP Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa.
Hồi nhỏ, ông bộc lộ tư chất thông minh, ham học võ, nhất là côn quyền. Năm 18 tuổi, Trần Xuân Soạn tự nguyện đi lính thay con một phú hào trong làng để lấy tiền giúp đỡ gia đình. Nhờ có tài mưu lược và chiến công diệt phỉ, ông được thăng chức, từ Suất đội hiệp quản lên chức Lãnh binh, rồi Đề đốc tỉnh Nam Định. Thời gian sau, ông được triệu về Huế phong chức Phó đề đốc kinh thành và giao chỉ huy đội “Phấn nghĩa quân”, rồi thăng chức Chưởng vệ Đề đốc kinh thành. Sau cuộc nổi dậy ở kinh thành Huế (tháng 7-1885), ông cùng Tôn Thất Thuyết hộ giá vua Hàm Nghi ra Tân Sở (Quảng Trị), Ấu Sơn (Hà Tĩnh), ban Chiếu Cần Vương, kêu gọi văn thân, sĩ phu và nhân dân cả nước chống thực dân Pháp.
Đầu năm 1886, Trần Xuân Soạn được vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết cử giữ chức Tả quân đô thống, rồi phái về Thanh Hóa phụ trách phong trào chống Pháp. Trở thành tổng chỉ huy Phong trào Cần Vương Thanh Hóa, ông tìm gặp các sĩ phu yêu nước trong tỉnh như: Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt, Tống Duy Tân, Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước... bàn kế hoạch tập hợp các cuộc khởi nghĩa ở các địa phương, thống nhất chỉ đạo và phối hợp hoạt động giữa các đội nghĩa quân.
Dưới sự chỉ đạo của Trần Xuân Soạn, các lãnh tụ Phong trào Cần Vương Thanh Hóa họp bàn và đề ra chủ trương: Tổ chức hưởng binh (chế độ quân dịch) ở các xã, huyện theo cơ ngũ; đồng thời kêu gọi nhân dân Thanh Hóa hăng hái tham gia nghĩa quân đánh giặc Pháp. Với tài năng và uy tín của mình, Trần Xuân Soạn được Tôn Thất Thuyết ủy nhiệm, lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi, phong chức cho các văn thân, sĩ phu yêu nước trong tỉnh. Trên là các tán lý quân vụ, mỗi huyện có một, hoặc hai tán tương quân vụ. Dưới là các bang biện quân vụ ở các xã, tổng. Trong số các tán tương quân vụ chọn một số tham tán giúp đỡ tán lý khi có việc. Ngoài ra, còn có các chức đề đốc, lãnh binh, quản cơ, hiệp quản chỉ huy nghĩa quân chiến đấu, cũng như các đốc vận quân lương phụ trách tiếp tế hậu cần cho nghĩa quân...
Để đẩy mạnh hoạt động của các đội nghĩa quân trong tỉnh, giữa năm 1886, Trần Xuân Soạn cùng các lãnh tụ Phong trào Cần Vương Thanh Hóa họp tại đình làng Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc. Khi thảo luận chọn địa bàn để xây dựng căn cứ kháng chiến, có hai chủ kiến: Tống Duy Tân, Cao Bá Điển, Hà Văn Mao và Cầm Bá Thước chủ trương lấy vùng rừng núi hiểm trở của Thanh Hóa làm chỗ dựa để đánh địch lâu dài. Riêng Trần Xuân Soạn không hoàn toàn bác bỏ ý kiến đó, nhưng ông coi đồng bằng cũng là một địa bàn chiến lược, tuy địa thế không hiểm trở như vùng rừng núi nhưng lại là nơi đông người, nhiều của, có mạng lưới giao thông phát triển và là nơi tiếp giáp với thị xã Thanh Hóa (nay là TP Thanh Hóa). Cho nên, cùng với xây dựng và củng cố địa bàn hoạt động ở vùng rừng núi, Trần Xuân Soạn chủ trương coi trọng xây dựng, củng cố địa bàn hoạt động ở vùng đồng bằng.
Các lãnh tụ Phong trào Cần Vương Thanh Hóa thống nhất cử Trần Xuân Soạn cùng Hà Văn Mao phụ trách xây dựng căn cứ Mã Cao (nay thuộc huyện Yên Định); đồng thời quyết định Trần Xuân Soạn đóng quân ở phủ Quảng Hóa (nay thuộc huyện Vĩnh Lộc) để hỗ trợ căn cứ Ba Đình (huyện Nga Sơn) và giữ mối liên hệ giữa Ba Đình với Mã Cao. Song thực tế, phụ trách xây dựng, chỉ huy chiến đấu ở Mã Cao là Hà Văn Mao, còn Trần Xuân Soạn chỉ huy nghĩa quân đóng ở Quảng Hóa.
Trong lúc Pháp chia cắt Thanh Hóa ra thành hai vùng rừng núi và đồng bằng để dễ bình định, thì việc chọn Ba Đình để xây dựng căn cứ là một quyết định kịp thời, thể hiện tài thao lược, tư duy quân sự của Trần Xuân Soạn và các lãnh tụ Phong trào Cần Vương Thanh Hóa. Như vậy, nghĩa quân vừa có địa bàn hoạt động ở đồng bằng, vừa mở rộng và phối hợp hoạt động giữa vùng rừng núi và vùng đồng bằng Thanh Hóa.
Dựa vào căn cứ, nghĩa quân Ba Đình đã đẩy lùi nhiều đợt tiến công của quân Pháp và gây cho chúng nhiều tổn thất. Đó là nhờ tinh thần chiến đấu quả cảm, tài trí của tướng sĩ, nghĩa quân Ba Đình; đồng thời có đội nghĩa quân do Trần Xuân Soạn chỉ huy ở bên ngoài phối hợp chiến đấu. Trần Xuân Soạn chỉ huy 300 quân sĩ đóng ở Thạch Bằng (Quảng Hóa) và hàng trăm nghĩa quân ở Mã Cao tổ chức nhiều trận phục kích những toán quân lẻ, hoặc chặn đánh, gây khó khăn cho các đoàn xe tiếp tế, chi viện của địch.
Khi nghĩa quân Ba Đình bị địch tiến công, ông lệnh cho quân sĩ bắn pháo vào hỗ trợ và tổ chức tiến công địch ở các phòng tuyến ngoại vi, làm cho chúng vất vả đối phó và chịu một số thiệt hại. Chính kẻ địch cũng phải thừa nhận rằng: “Những trận tiến công của Trần Xuân Soạn vào phòng tuyến ngoại vi và những trận phục kích các toán quân lẻ, các đoàn xe tiếp tế của chúng từ ngoài Bắc vào đã làm chúng lo ngại” (theo cuốn “Từ Ba Đình đến Hùng Lĩnh, 1886-1892”, Nhà xuất bản Thanh Hóa, 1985, trang 57).
Sau khi mở nhiều đợt tiến công vào Ba Đình không thành, giặc Pháp tức tối và đê hèn cho đào hai ngôi mộ ông và cha của Trần Xuân Soạn, lấy xương xếp giữa đường, rồi cho người đến dọa ông nếu không ra hàng, chúng sẽ ném tất cả xương xuống sông. Vì nghĩa lớn, Trần Xuân Soạn đã hy sinh tình riêng, quyết không hàng giặc. Hành động kiên cường, dũng mãnh thể hiện tinh thần yêu nước, chí căm thù giặc sâu sắc của ông đã cổ vũ, động viên quân sĩ quyết tâm chiến đấu.
Được tăng cường thêm lực lượng, tháng 1-1887, quân Pháp mở đợt tiến công quy mô lớn vào căn cứ Ba Đình. Sau nhiều ngày chiến đấu, bị hao tổn lực lượng, lương thực, vũ khí cũng cạn dần, Đinh Công Tráng và Phạm Bành quyết định rút nghĩa quân khỏi Ba Đình về căn cứ Mã Cao và cử người bí mật ra ngoài báo với Trần Xuân Soạn đưa quân đến phối hợp hành động. Cụ thể, khi nghĩa quân Ba Đình bắt đầu rút lui thì lực lượng của Trần Xuân Soạn đánh vào các vị trí địch đang bao vây căn cứ và các đồn xung quanh, khiến chúng lo đối phó mà không phát hiện được cuộc rút lui để truy kích. Nhằm che mắt địch, toàn bộ quân sĩ do Trần Xuân Soạn chỉ huy đóng giả dân thường tập kết về Nga Thôn. Đêm 20 rạng ngày 21-1-1887, Trần Xuân Soạn lệnh cho quân sĩ tiến công vào các đồn ngoại vi, buộc địch phải tập trung lực lượng đối phó, tạo điều kiện cho nghĩa quân Ba Đình rút ra ngoài thuận lợi.
Sau khi Ba Đình thất thủ (tháng 1-1887), căn cứ Mã Cao bị vỡ (tháng 2-1887), Trần Xuân Soạn cùng Hà Văn Mao chuyển lên căn cứ Điền Lư (nay thuộc huyện Bá Thước) dự định xây dựng lại phong trào. Nhưng ở vùng miền núi cũng bị Pháp đánh phá ác liệt, ông đành vào Nghệ An tham gia khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn. Sau vài tháng, Trần Xuân Soạn trở lại Mường Kỷ (nay thuộc huyện Bá Thước) cùng Cao Bá Điển, Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước tiếp tục lãnh đạo nhân dân miền núi chống Pháp. Đến khi Phong trào Cần Vương Thanh Hóa gặp khó khăn, năm 1888, ông sang Long Châu (Trung Quốc) tìm gặp Tôn Thất Thuyết, hy vọng tổ chức các toán quân để về nước đánh Pháp, nhưng không thành. Ngày 17-12-1923, ông mất tại Long Châu, thọ 74 tuổi.
Cuộc đời và sự nghiệp của Trần Xuân Soạn là tấm gương sáng về một võ quan với tinh thần vì dân, vì nước. Được giao tổ chức và lãnh đạo Phong trào Cần Vương Thanh Hóa, ông đã giữ vai trò quan trọng trong việc quyết định chọn Ba Đình làm địa bàn xây dựng căn cứ kháng chiến và chỉ huy quân sĩ tiến công địch, hỗ trợ đắc lực cho nghĩa quân Ba Đình. Ông xứng đáng được lịch sử ghi nhận và nhân dân tôn vinh về những đóng góp trong phong trào đấu tranh vũ trang chống thực dân Pháp nửa cuối thế kỷ 19.
Đại tá, TS DƯƠNG ĐÌNH LẬP