Bị bắt làm thái giám

Năm 1407 ghi dấu một trang sử đau thương của nước ta. Giặc Minh lấy cớ giúp nhà Trần diệt nhà Hồ sang xâm chiếm nước Nam. Trương Phụ, tướng giặc Minh thực hiện chính sách cướp sạch, phá sạch, không những vơ vét của cải mà còn bắt các quan lại, trí thức và những người tài giỏi nước ta sang phục vụ cho họ.

Từng đoàn người lũ lượt bị giải trên đường thiên lý qua ải Bắc. Trong đoàn người khốn khổ ấy có chàng trai Nguyễn An, 25 tuổi, làm nghề mộc, quê ở mạn Hà Đông, phía tây Hà Nội ngày nay. Ngay từ khi lên 10, An đã theo chân cha anh trong làng đi “ăn cơm thiên hạ”-xây dựng các đền, chùa khắp vùng Sơn Tây, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ… Cậu chẳng nề hà làm đủ thứ việc, từ điếu đóm đến học bào, học đẽo. Nhờ có năng khiếu bẩm sinh và chịu khó học hỏi, chẳng bao lâu, Nguyễn An đã lên bậc thợ cả, vào hàng trẻ tuổi nhất bấy giờ. Với một cây thước tầm trong tay, anh có thể chỉ huy lắp ráp cột kèo, xây dựng cả một ngôi đình, không xê xích một li, không sơ sểnh một chi tiết. Tiếc rằng thuở xưa, những công trình kiến trúc, điêu khắc không để lại tên tác giả, nên ngày nay chúng ta không biết những đền đài, miếu mạo khắp nước thuộc “bản quyền” của ai!

Tuổi trẻ tài cao, Nguyễn An được tuyển chọn vào các hiệp thợ tham gia xây dựng Hoàng thành Thăng Long vào cuối triều Trần, mà di tích hiện còn lại trong lòng đất vừa được xuất lộ thời gian gần đây. Khi nhà Hồ soán ngôi nhà Trần, cấp tập xây dựng Tây Đô ở Thanh Hóa, hiệp thợ của Nguyễn An cũng được đưa vào tham gia xây thành, dưới sự điều hành của Hồ Nguyên Trừng. Xem ra, anh đã học hỏi được nhiều từ vị “tổng công trình sư” này, người mà tương truyền, chỉ trong ba tháng đã chỉ huy thợ thuyền, phu phen, binh lính dựng lên cả tòa thành bằng đá xanh hiện vẫn khiến người ta kinh ngạc… Nhưng đó là chuyện đã qua, còn lúc này, cùng với đoàn người bị áp giải, Nguyễn An lê bước trên đường thiên lý sang nước người. Sau hàng mấy tháng trời thì đến Kim Lăng, rồi lại tiếp tục bị giải ngược lên Yên Kinh vào mùa giá lạnh. Tù nhân được phân loại. Các trai tráng trẻ trung, mặt mũi sáng sủa, trong đó có Nguyễn An, được chọn ra để “tịnh thân” (đem thiến) làm hoạn quan phục vụ trong cung cấm. Nguyễn An đổi tên là A Lưu và được sung vào hàng thái giám trong cung vua Thành Tổ.      

Xây ba cung, hai điện

Vào thời Nguyên, quyền thống trị thuộc về người Mông Cổ vốn sống trên thảo nguyên thoáng đãng trong những chiếc lều du mục, nên việc xây dựng nhà cửa, lâu đài không được chú trọng lắm. Kinh thành Yên Kinh (nay là Bắc Kinh) cũng chỉ có quy mô nhỏ. Đã vậy, qua chiến tranh loạn lạc, Yên Kinh bị tàn phá hầu như chẳng còn gì. Nắm được quyền lực trong tay, Minh Thành Tổ quyết định xây dựng lại kinh thành.

Công việc đầu tiên là xây Tử Cấm Thành cho nhà vua và cung tần mỹ nữ. Vào thời gian ấy, thái giám A Lưu, tức Nguyễn An đã bước qua tuổi 30. Biết là không có chút hy vọng trở về cố quốc, Nguyễn An đành cam chịu thân phận phục dịch trong cung. Những lúc rảnh rang, Nguyễn An vẫn nhớ nghề cũ, tẩn mẩn lấy tre gỗ làm những chiếc lồng để nuôi chim cảnh. Nhưng rồi nghĩ đến thân phận “cá chậu chim lồng” của mình cũng chẳng khác gì những con chim kia, An lại thả cho chúng bay đi.

leftcenterrightdel
Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh (Trung Quốc). Ảnh tư liệu 
Thỉnh thoảng, An được theo hầu vua đi thị sát công việc xây Tử Cấm Thành. Những khi ấy, An đều để ý xem xét địa hình, địa vật kinh thành. Trở về, An âm thầm vẽ vẽ vạch vạch đồ án theo chủ kiến của mình, sắp đặt những cung điện, lâu đài phù hợp với phong thủy và điều kiện tự nhiên vùng đất này. Nhưng An không đưa cho ai xem, càng không hé lộ cho nhà vua biết. Ngoài ra, An còn thu nhặt những mẩu gỗ, cành cây, lau sậy… tỉ mẩn đẽo gọt, lắp ghép thành các mô hình lâu đài trông như thật.

Công trình Tử Cấm Thành đã khởi công từ năm 1406 nhưng tiến triển rất chậm. Vua Minh Thành Tổ ngày càng sốt ruột, đứng ngồi không yên. Một hôm đi dạo trong cung, qua chỗ của A Lưu, nhà vua bất chợt rẽ vào, thấy ông đang miệt mài đục đẽo. Vua ngồi lại hỏi han về nghề nghiệp trước đây của A Lưu khi còn ở Đại Việt. Biết gặp được người tài, Minh Thành Tổ liền hỏi A Lưu về việc xây Tử Cấm Thành. Ông mạnh dạn tâu bày những ý tưởng của mình và đem các bản phác họa dâng vua xem. Nhà vua càng xem càng tỏ ý hài lòng. Ngay hôm sau, trong buổi thiết triều, Minh Thành Tổ hạch hỏi Thượng thư Bộ Công về tiến độ xây dựng Tử Cấm Thành và quở trách khá nặng nề. Đồng thời vua phán truyền cho kiến trúc sư Thái Tín cùng với A Lưu bổ sung, chỉnh sửa lại thiết kế. 

Được chính nhà vua hậu thuẫn, mọi việc đều răm rắp thi hành. A Lưu được đặc cách lo việc dựng các cung điện chính, gồm ba điện (Phụng Thiên, Hoa Cái và Cẩn Thân), hai cung (Càn Thanh và Khôn Ninh). Vốn tinh xảo nghề mộc, A Lưu thiết kế các cung điện này bằng gỗ, được nhà vua chuẩn y. Gỗ quý từ các nơi kìn kìn chở về. A Lưu chọn những thợ khéo tay người Hán và người Việt để “đào tạo lại”, miệng nói tay làm, sống gần gũi chan hòa với thợ theo cách các hiệp thợ Việt ngày trước nên được thợ thuyền nể phục, răm rắp làm theo. Đến năm 1420 thì Tử Cấm Thành hoàn thành.

A Lưu được nhà vua thưởng công nhưng đem phân chia hết vàng bạc cho những người thợ đã đồng cam cộng khổ với mình. Ông vẫn giữ phận thái giám, không màng chức tước gì cả.

Ba điện và hai cung vừa xây xong năm 1420 thì năm sau bị sét đánh. Khắp nơi loan truyền rằng do Minh Thành Tổ tàn ác nên trời phạt. Thành Tổ bị ốm và đến năm 1424 thì chết.

Tổng công trình sư Thành cổ Bắc Kinh

A Lưu vẫn tiếp tục làm thái giám trong cung các vua tiếp theo là Nhân Tông và Tuyên Tông. Đến đời Anh Tông thì triều Minh đã đi vào ổn định, kinh tế dồi dào. Năm 1437, nhà vua quyết định cải tạo xây dựng lại thành Bắc Kinh theo ý nguyện chưa thành của vua Thành Tổ. “Dự án” khổng lồ, như cách nói ngày nay, được giao cho Thái Tín, lúc này là Thị lang Bộ Công. Thái Tín tâu trình lên triều đình cần huy động 18 vạn dân phu mà phải là thợ giỏi, cùng một lượng tiền của to lớn và hứa 5 năm mới xong. Quần thần tâu bày, cho là quá tốn kém. Lúc này mọi người mới nhắc nhà vua trẻ nhớ tới thái giám A Lưu, tức Nguyễn An. A Lưu khi đó đã 56 tuổi, được nhà vua triệu đến hỏi. Ông trình bày ý tưởng và phương thức thực hiện rất rạch ròi, có lý nên được nhà vua cử làm tổng đốc công (tổng công trình sư) trùng tu thành Bắc Kinh. Sách “Kinh thành ký thắng” của Dương Sĩ Kỳ viết: “... Nguyễn An tự tay vạch kiểu, thành hình là lập được thế, mắt ngắm là nghĩ ra cách làm, tất cả đều đúng với quy chế. Bộ Công và các thợ thuyền đành chịu khoanh tay, bái phục, nghe ông chỉ bảo, sai khiến, thật là người đại tài, xuất chúng”. Nghĩa là, từ vẽ đồ án thiết kế, đào tạo nhân lực đến chỉ đạo thi công ông đều tham gia. Công việc của ông làm chính là kết hợp nhiệm vụ của một kiến trúc sư công trình, một nhà quy hoạch, một kỹ sư xây dựng lẫn một nhà quản lý dự án, như ở thời đại ngày nay. Năm Chính Thống thứ hai (1437), ông xây dựng Thành nội tức Hoàng thành, Thành ngoại với 9 cửa… Tất cả được thực hiện trong hơn 2 năm mà chỉ dùng hết 1 vạn nhân công.

Tháng 3-1440, ông lại được nhà vua giao cho 7 vạn thợ xây dựng và trùng tu ba điện Phụng Thiên, Hoa Cái, Cẩn Thân cùng hai cung Càn Thanh, Khôn Ninh (các tòa cung điện này đã bị sét đánh từ năm 1421 đời Minh Thành Tổ). Chỉ một năm rưỡi thì xong. Vua Anh Tông thưởng cho A Lưu 50 lạng vàng, 100 lạng bạc, 8 tấn thóc và 1 vạn quan tiền.

Đến tháng 10 năm Chính Thống thứ mười (1445), ông lại được giao xây dựng lại tường thành Bắc Kinh, vốn trước bên ngoài xây bằng gạch nhưng ở trong đắp đất nên hễ mưa là sụt.

Một nhân tài Đất Việt

 Quả thật rất ít sử liệu trong nước cho biết về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn An. Chỉ thấy cách đây ba thế kỷ, Lê Quý Đôn dựa vào sách “Hoàng Minh thông kỷ” ghi lại nhưng còn rất sơ sài. Trong khi đó, rất nhiều sách xưa của Trung Quốc, kể cả chính sử triều Minh (Minh sử) đều có ghi chép về ông và sự kiện xây thành Bắc Kinh. Tuy nhiên, sử sách hiện đại thì hầu như không nhắc đến.

Song vẫn có những người công tâm. Nhà sử học Trương Tú Dân từng làm việc tại Thư viện Bắc Kinh, đã sang tận Đài Bắc để thu thập tài liệu viết sách về Nguyễn An. Trên tờ Ích Thế báo số ra ngày 11-11-1947, ông đã cho đăng bài “Thị dân Bắc Kinh nên kỷ niệm Nguyễn An, người An Nam, thái giám nhà Minh, tổng công trình sư tạo dựng lầu thành Bắc Kinh thế kỷ 15”.        

Trong bài báo, ông nêu ý kiến: “Từ xưa đến nay, người tốt trong hoạn quan trăm ngàn người không được một. Còn An hết lòng vì công việc, thanh bạch, liêm khiết, khắc khổ, khi lâm chung không có nén vàng nào trong túi, là một con người cao thượng, chỉ để lại công đầu ở Bắc Kinh. Nguyễn An cùng thời với Tam Bảo (thái giám Trịnh Hòa) ba lần sang Tây Dương, đều là những người kiệt xuất trong hoạn quan, có công với quốc gia không thể phai mờ. Ngày nay, tên Tam Bảo thái giám, đàn bà, trẻ con đều tỏ tường, còn tên nhà đại kiến trúc Nguyễn An-A Lưu thì ngay học giả, chuyên gia ít ai hay biết. Tôi nghĩ, với An, không chỉ riêng giới công trình đáng ngưỡng mộ mà thị dân Bắc Kinh cũng nên “uống nước nhớ nguồn”, kỷ niệm chớ quên”.

Nguyễn An là kiến trúc sư thiết kế và là tổng công trình sư xây dựng thành cổ Bắc Kinh. Điều này đã được cả sử sách Trung Quốc và phương Tây ghi nhận. Dẫu công trình vĩ đại này được xây dựng ở Trung Quốc nhưng cũng là một kỳ quan của nhân loại, là cống hiến của một nhân tài Đất Việt.

NGUYỄN NHƯ MAI