Sau chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ ba năm 1288, nhờ lập công lớn, được nhà vua phong tước, ông đến sống ở xứ Thiên Bồng, tức làng Vạn Tràng, nay thuộc xã Long Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An và nhà thờ chính thờ ông cũng được xây dựng tại đây.

Theo sự tích “Điềm ứng trâu vàng” lưu truyền ở vùng ven biển huyện Diễn Châu cũng như gia phả họ Hoàng ở làng Vạn Tràng: Một buổi sáng, bà Trương Thị Hoa ra sông gánh nước, bỗng thấy hai con trâu vàng từ dưới nước nhảy lên đánh nhau dữ dội và lao đến chỗ bà. Bà vội cầm đòn gánh để đánh đuổi, đôi trâu lại nhảy xuống nước rồi biến mất. Trước khi gánh nước về nhà, bà không quên làm động tác tẩy uế đòn gánh. Nhưng lạ thay, bà vừa khỏa đầu đòn gánh xuống sông thì bỗng nhiên nước nơi đó khô cạn, nhưng khi bà cất đòn gánh thì nước lại đầy như thường. Thấy lạ, bà đưa gần lại nhìn thì thấy đầu đòn gánh có dính lông trâu vàng. Bà liền gom vật lạ ấy vào dải yếm rồi gánh nước về nhà (cũng có nơi nói lông trâu rơi vào thùng nước, bà uống phải). Sau đó, bà cảm thấy trong người khác thường rồi có thai. Ngày mãn nguyệt khai hoa, ánh hào quang bỗng tỏa sáng khắp nhà, một đứa bé khôi ngô tuấn tú, gương mặt hồng hào ra đời, được đặt tên là Hoàng Tá Thốn. Đó là ngày 16-6 năm Giáp Dần (1254).

leftcenterrightdel
Nhà thờ Sát Hải Đại vương Hoàng Tá Thốn tại làng Vận Tràng, xã Long Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ảnh: NGUYỄN PHAN.

Thuở nhỏ, Hoàng Tá Thốn có sức khỏe hơn người và sớm được đi học. Nhưng Hoàng Tá Thốn chỉ thích võ nghệ nên cha mẹ cũng chiều lòng và ở tuổi thanh niên đã nổi tiếng là người khỏe, võ nghệ cao cường. Đặc biệt, ông có tài bơi lội, lặn lâu dưới nước.

Lớn lên khi đất nước bị quân Nguyên Mông xâm lược, hưởng ứng lời kêu gọi của triều đình, Hoàng Tá Thốn rời quê hương sung vào đội bộ binh. Sau một thời gian, viên tướng chỉ huy thấy ông thông minh, lắm cơ mưu với tài bơi lội đặc biệt nên đã tiến cử lên Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Hưng Đạo Vương sung Hoàng Tá Thốn vào đội thủy binh thiện chiến của nhà Trần. Ở đây, ông và các chiến hữu đã được huấn luyện đầy đủ, nhất là kỹ, chiến thuật trong đội thợ lặn. Sau đó, ông lại được cho làm Nội thư gia, giúp việc binh thư cho Trần Hưng Đạo.

Tương truyền rằng, ông đã cùng các chiến hữu với chiến thuật lặn xuống sông đục thuyền địch làm cho thủy binh của quân Nguyên vô cùng khốn đốn, đặc biệt là trong trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng năm 1288.

Theo lịch sử: Sáng 9-4-1288 (tức mồng 8 tháng Ba năm Mậu Tý), khi đoàn thuyền của Ô Mã Nhi tiến vào sông Bạch Đằng, nhân lúc nước lớn, thủy quân nhà Trần tràn ra giao chiến rồi giả thua chạy dẫn địch vào sâu bên trong sông Bạch Đằng… Cùng với các cánh quân khác, đạo thủy binh của Hoàng Tá Thốn mai phục từ trước đổ ra xung trận và đã gây cho địch những thiệt hại to lớn, đặc biệt là đánh đắm hàng chục thuyền giặc, trong đó có thuyền chủ tướng và góp công bắt sống Ô Mã Nhi. Trận Bạch Đằng lịch sử kết thúc, quân nhà Trần đại thắng. Đoàn thuyền hơn 600 chiếc của quân Nguyên Mông bị tiêu diệt hoàn toàn. Các tướng giặc Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ... bị bắt sống. Quân và dân Đại Việt còn thu được hơn 400 chiến thuyền.

Trên đường khải hoàn, Hoàng Tá Thốn đã được đức vua Trần Nhân Tông gặp và có thơ khen ngợi. Nguyên văn bằng chữ Hán, phiên âm như sau: 

Nhị đề điện mạnh tự đương niên

Hoàn trẫm công thành tín hiển nhiên

Phấn dụng tiên chinh tam điệp tấn

Chiêu hàng ngoại quốc đại

huân tuyền

Chỉ huy mao việc thanh liêu tá

Bảo chướng can thành điện sóc biên

Hoàn tập ban sư lưu lấm duyệt

Chu mao phê đạp mạc năng tuyên.

Dịch thơ:

Đầu xuân kế sách được tâu lên

Thắng lợi rõ ràng trẫm vốn tin

Điệp tấu ngợi ca trong dũng tướng

Công chiêu hàng giặc giữ bình yên

Cầm quân tài giỏi ai bì kịp

Uy dũng bao trùm khắp cõi biên

Đứng trước ba quân oai lẫm liệt

Bút phê khó nói hết lời khen.

Được gặp nhà vua trên đường trở về đã là diễm phúc lớn của kẻ bầy tôi. Lại được nhà vua đề thơ khen ngợi thì quả là cái ơn quá lớn. Để bái tạ hồng ân của đức vua, tướng quân đã làm thơ đáp lễ. Nguyên văn bằng chữ Hán, phiên âm như sau:

Hoàng uy chấn bạt suất sử niên

Song lạp nhân dân lại án nhiên

Sóc chuyết viêm phong quy

tịnh chiếm

Xuân đài thọ vực hưởng an tuyền

Lượng dai cán vũ hồi ngoan chướng

Vạn lý cọng cần đạt viễn biên

Bố đức an dân thiên tử mạnh

Tiêu thần hà khắc xướng

phiền tuyên

Dịch thơ:

Uy vua chấn động sấm vang lên

Khắp chốn an lành dân vững tin

Cơn nóng qua rồi trời đất nhuận

Nền xuân cõi thọ thật bình yên

Đôi nguồn uy lực dìm quân địch

Vạn dặm huy hoàng khắp cõi biên

Đức xuống dân vui ơn chín bệ

Tiểu thần đâu xứng với lời khen.

Sự kiện lịch sử đặc biệt này tại văn bia họ Hoàng ở làng Vận Tràng, xã Long Thành do Cao Xuân Dục viết có đoạn: “Đời vua Trần Nhân Tông năm Trùng Hưng, Mậu Tý (1288) tướng Nguyên là Thoát Hoan và Ô Mã Nhi sang xâm lược Thăng Long. Tướng quân Hoàng Tá Thốn được cấp ấn phù thống lĩnh hàng vạn quân cùng tàu thuyền phục kích ở sông Bạch Đằng để đại phá quân giặc”.

Để tránh hận thù giữa hai nước, tháng 2 năm Kỷ Sửu (1289), Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn trình nhà vua kế hoạch trao trả tù binh, tức là cho Ô Mã Nhi và đội quân Nguyên chiến bại về nước. Một lần nữa, tướng quân Hoàng Tá Thốn lại được giao thực thi nhiệm vụ quan trọng này.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, nhà vua ban tước Sát Hải Đại vương, tước Minh Tự cho ông và cấp đất cho lập trang trại. Hoàng Tá Thốn đã chọn xứ Thiên Bồng, tức là vùng đất làng Vạn Tràng, xã Long Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An ngày nay.

Quân dân nhà Trần đại thắng, quân Nguyên bị đuổi ra khỏi bờ cõi, Hoàng Tá Thốn lại được triều đình nhà Trần bổ làm tướng thống lĩnh các đạo thủy binh coi giữ 12 cửa biển. Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ bờ biển, ông đã tổ chức các đồn trại ven biển thường xuyên tuần tra canh phòng và đã kịp thời tiêu diệt nhiều đám giặc biển. Những lần quân Chiêm Thành sang quấy rối hải phận nước ta, cướp bóc một số địa phương ven biển ở phía Nam, Hoàng Tá Thốn đã đem quân đánh dẹp. Quân nhà Trần tiến đến đâu, giặc Chiêm Thành tan vỡ đến đó. Kết thúc các cuộc chiến, ông được triều đình cho hưởng lộc hai miền Thuận, Quảng.

Những năm cuối đời, do tuổi cao, Hoàng Tá Thốn được triệu về kinh để làm việc ở Nội gia thư. Một lần đi tuần thú đường biển từ Bắc vào Nam, đến Cửa Trào huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa, do tuổi già sức yếu, ông lâm bệnh và mất. Đó là ngày 15-3 năm Kỷ Mão (1339), hưởng thọ 85 tuổi.

Hiện nay, tại xã Hưng Lộc, thành phố Vinh (Nghệ An) có một con đường mang tên Hoàng Tá Thốn và ở huyện Yên Thành cũng có ngôi trường mang tên ông.

NGUYỄN TÂM CẨN - PHAN BÁ HÀM