Nhà sử học Ngô Thì Sĩ đã nhận định rằng: “Triệu Việt Vương lúc ấy đã chuyên chế một vùng (đầm Dạ Trạch) hơn 20 năm, cũng có thể gọi là anh hùng đấy”.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư có viết: Bính Dần, năm thứ 3 (546), mùa xuân, tháng Giêng, bọn Bá Tiên (tướng nhà Lương-TG) đánh lấy được thành Gia Ninh (ở khoảng Bạch Hạc, Việt Trì, Phú Thọ-TG)… Mùa thu, tháng 8, vua (Lý Nam Đế) đem 2 vạn quân từ trong đất Lão ra đóng ở hồ Điển Triệt (thuộc xã Tứ Yên, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay)… Bá Tiên đem quân theo dòng nước tiến vào; quân Lương đánh trống reo hò mà tiến. Vua không phòng bị nên tan vỡ, lui giữ ở trong động Khuất Lão (thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ ngày nay), ủy cho đại tướng là Triệu Quang Phục giữ việc nước, điều quân đi đánh Bá Tiên… Triệu Quang Phục cầm cự với Bá Tiên, chưa phân thắng phụ, nhưng quân của Bá Tiên rất đông, Quang Phục liệu thế không chống nổi, mới lui về giữ chằm (đầm) Dạ Trạch…
Đầm Dạ Trạch thuộc bãi Màn Trù, Khoái Châu, Hưng Yên, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có thớ đất cao có thể ở được, chung quanh bùn lầy, người, ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ, chống bằng sào, đi lướt trên cỏ nước mới có thể đến được. Nếu không quen đường thì khó có thể vào, sa xuống nước dễ bị rắn cắn chết. Dạ Trạch lại nằm ở vùng đồng bằng dân cư đông đúc, nhiều sức của, sức người bổ sung cho cuộc kháng chiến; quân thù tiến đánh bất lợi nhưng lại phù hợp với cách đánh du kích, trường kỳ của ta. Triệu Quang Phục đã lợi dụng thế hiểm trở ở vùng này, vừa tập luyện, vừa chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài, xây dựng đầm Dạ Trạch thành căn cứ kháng chiến chiến lược của nghĩa quân.
    |
 |
Toàn cảnh Khu đền thờ Triệu Việt Vương - Triệu Quang Phục tại Khoái Châu, Hưng Yên. Ảnh: SƠN MINH |
Nghe tin Lý Nam Đế mất, quân sĩ suy tôn Triệu Quang Phục làm Dạ Trạch Vương. Ông tự xưng là Triệu Việt Vương đảm trách nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy quân dân bước vào cuộc kháng chiến lâu dài chống quân Lương.
Trong quá trình xây dựng lực lượng, căn cứ kháng chiến và tiến hành đánh địch, Triệu Việt Vương đã phân tích âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, so sánh tương quan lực lượng và đã thay đổi cách đánh, áp dụng “kế trì cửu chiến”, không áp dụng cố thủ, phòng ngự bị động như giai đoạn trước đó. Đây có thể coi là sự vận dụng sáng tạo lối đánh du kích tài giỏi và áp dụng phương thức tác chiến của dân tộc nhỏ đánh với quân giặc đông và mạnh, từng bước chuyển hóa lực lượng và thế trận ngày càng có lợi cho ta, kết hợp với chớp thời cơ thực hiện phản công chiến lược, giành thắng lợi quyết định.
Đại Việt sử ký toàn thư thuật lại: “Quang Phục thuộc rõ đường lối, mới đem hơn 2 vạn người và đóng ở nền đất trong chằm, ban ngày thì tuyệt không để lộ khói lửa dấu người, ban đêm thì dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh Bá Tiên, giết và bắt được rất nhiều, lấy được lương thực làm kế cầm cự lâu dài. Bá Tiên theo hút mà đánh nhưng không đánh được”.
Với “kế trì cửu chiến”, qua gần 4 năm (547-550), quân ta càng đánh càng mạnh, quân Lương lâm vào tình trạng vô cùng khó khăn. Giữa lúc đó ở Trung Quốc xảy ra một biến cố nội bộ, buộc tướng Bá Tiên phải về nước, trao lại binh quyền cho phó tướng là Dương Sàn (Dương Phiêu). Lợi dụng thời cơ đó, Triệu Việt Vương mở cuộc phản công chiến lược, nhất loạt tiến công các đồn trại quân Lương, đánh chiếm thành Long Biên, đuổi sạch quân xâm lược, giành lại quyền tự chủ trên toàn bộ đất nước Vạn Xuân. Sử cũ chép: “Gặp lúc nhà Lương có loạn Hầu Cảnh, gọi Bá Tiên về, ủy cho tì tướng là Dương Sàn đánh nhau với vua (Triệu Việt Vương-TG). Vua tung quân ra đánh, Sàn chống cự bị thua chết. Quân Lương tan vỡ chạy về Bắc. Nước ta được yên, vua vào thành Long Biên ở”.
Có thể khẳng định rằng, Triệu Quang Phục-Triệu Việt Vương đã có công lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước hồi thế kỷ thứ 6. Đặc biệt, ông đã đóng góp vào kho tàng nghệ thuật quân sự những bài học cho đời sau về cách đánh du kích tài giỏi. Giữa lúc nguy nan, ông đã nhận sự ủy thác của Lý Nam Đế tiếp tục kháng chiến, rút ra được nguyên nhân của sự thất bại, đề ra chiến lược đánh lâu dài, sáng tạo ra cách đánh mới: Cách đánh du kích, ngày ẩn, đêm hiện trên địa bàn lợi hại, phát huy được sở trường đánh trên sông nước, lấy nhỏ thắng lớn, làm địch dần suy yếu, chán nản, bị động. Nghĩa quân đã bảo toàn được lực lượng, càng đánh càng mạnh, lấy đánh tiêu hao, thắng nhỏ để tiến lên thay đổi tương quan lực lượng, nắm thời cơ đánh lớn, giành thắng lợi quyết định.
TRẦN HOÀNG