QĐND - Cuối năm 1972, cuộc chiến ngày càng trở nên khốc liệt ở miền tây Thừa Thiên-Huế. Tên những địa danh, những cao điểm không mấy khi im tiếng súng luôn thường trực trong các cuộc giao ban, các cuộc tiếp xúc hoặc trong câu chuyện hằng ngày của người lính. Ngoài những cao điểm ác liệt nổi tiếng không cần nhắc đến ai cũng biết như: Mỏ Tàu, Hòn Vượn, Động Tranh… thì các huyệt điểm trên vùng tuyến giáp ranh cũng thường xuyên xảy ra tranh chấp quyết liệt. Đó là những điểm chốt, những hậu cứ cài răng lược giữa ta và địch. Bên cạnh các đơn vị chủ lực từ miền Bắc, từ Quảng Trị cùng tham chiến, ở Thừa Thiên-Huế, Trung đoàn 6 chủ lực địa phương cùng dân quân, du kích luôn gieo vào địch sự sợ hãi khiếp nhược. Đối đầu với Quân Giải phóng trên địa bàn Thừa Thiên-Huế và Quảng Nam có một đơn vị quân đội Việt Nam Cộng hòa rất khét tiếng có biệt danh “Trâu điên”. Đơn vị “Trâu điên” được trang bị, biên chế quân và vũ khí rất hùng hậu với sự yểm trợ tối đa của hỏa lực mặt đất và trên không. Cuộc đối đầu giữa ta và lính “Trâu điên” của quân đội Việt Nam Cộng hòa bao giờ cũng là cuộc chiến đấu một mất một còn.
Tiểu đoàn tôi nhận lệnh di chuyển về hướng giáp ranh Nam Phú Cần, tuyến giáp ranh ấy có mấy điểm chốt nổi tiếng ác liệt: Đồi Vàng, Đồi Nghệ và điểm cao 303. Điểm cao 303 khi chúng tôi đến trinh sát có khoảng một đại đội ta chốt giữ. Sự ác liệt cũng phơi bày trên điểm cao, không còn một gốc cây, ngọn cỏ, hầm hào chiến đấu bị pháo địch đào lên lộn xuống, hầm nọ chồng lên hầm kia, đoạn hào mới chồng lên đoạn hào cũ. Cứ sau mỗi cuộc đối đầu, mỗi trận bom pháo, hệ thống công sự bị hủy hoại gần hết… Muốn tiến quân về Nam Phú Cần thì ta phải làm chủ được điểm cao 303, Đồi Nghệ, Đồi Vàng.
Chúng tôi đến hầm chỉ huy dưới chân điểm cao 303 cuối một buổi chiều. Ngoài lực lượng trinh sát đi trước, anh Bỉnh-Tiểu đoàn trưởng, anh Hân-Chính trị viên tiểu đoàn, tôi và Son đi cùng lên Đồi Nghệ để phục vụ cán bộ tiểu đoàn xác định quyết tâm chiến đấu. Giữa điểm cao 303 và Đồi Nghệ, Đồi Vàng chỉ có một con đường độc đạo xuống Nam Phú Cần vì vậy phải quyết tâm chốt giữ các điểm cao này chính là bảo vệ con đường độc đạo để bộ đội tiến quân chiếm đánh Nam Phú Cần và mở rộng sự kiểm soát các vùng giáp ranh lân cận.
Tôi và Son đang ngồi trong căn hầm chữ A chuẩn bị trang bị để đi trinh sát với các thủ trưởng tiểu đoàn thì bất ngờ pháo địch bắn dồn dập lên điểm cao 303. Có những quả pháo vượt tầm rơi xuống thung lũng nơi hậu cứ của đơn vị. Một lúc sau pháo địch dừng bắn, anh Bỉnh vào đưa cho Son chiếc đài hai băng hiệu National, loại đài Nhật thịnh hành nhất thời đó ở miền Nam. Chiếc đài được bọc trong túi vải quấn tròn hai lớp bị một mảnh pháo cắm vào mặt kính vỡ toác không còn bắt được sóng nữa. Son vừa cầm chiếc đài trên tay vừa lẩm bẩm: “Chưa vào trận mà đài đã hy sinh, trận này chắc khốc liệt lắm đây!”, nghe vậy anh Bỉnh chỉ cười.
Chúng tôi chia hai hướng đi, Son và anh Bỉnh lên Đồi Nghệ, tôi và anh Hân lên điểm cao 303. Cuối chiều, trước khi mặt trời lặn hai hướng trinh sát nhóm gặp tại Đồi Nghệ. Nghe trinh sát tiểu đoàn báo cáo tình hình các hướng và đặc biệt là tình hình trinh sát dưới Nam Phú Cần lên. Thảo luận một lúc, anh Bỉnh đứng dậy đi chệch xuống mép Đồi Nghệ để quan sát bằng ống nhòm. Bỗng một tiếng nổ xé tan không khí yên tĩnh hiếm có của chiều giáp ranh. Anh Bỉnh ngã gục xuống, anh đạp phải một quả mìn và hy sinh tại chỗ. Tổ trinh sát đưa anh Bỉnh xuống chân đồi. Bữa cơm tối hôm đó chúng tôi không ai muốn nuốt, quen nhiều rồi với sự hy sinh, mất mát nhưng có những hy sinh không cầm lòng được. Anh Bỉnh là một tiểu đoàn trưởng dày dạn trận mạc, một người chỉ huy giàu suy nghĩ nhưng ít nói, trầm tĩnh mà quyết đoán, yêu thương cấp dưới nhưng lại không bộc lộ ra ngoài…
Chiến dịch tiến công xuống Nam Phú Cần vẫn diễn ra như kế hoạch tác chiến. Tôi không đi theo cánh quân hướng chủ yếu mà ở lại làm nhiệm vụ trên điểm cao 303. Điểm cao 303 là một cao điểm có giá trị quân sự, là điểm chốt tiền tiêu của tuyến giáp ranh, chiếm được 303 là làm chủ được một dãy phòng tuyến giáp ranh rộng và sâu về tầm kiểm soát. Vì vậy không ngày nào pháo địch không bắn phá, không ngày nào chúng không xua quân lên một vài lần. Đối đầu với điểm chốt 303 không ai khác là lính của đơn vị “Trâu điên”, những tên lính khét tiếng hung hãn và lì lợm đã từng chạm trán với Quân Giải phóng suốt từ Quảng Nam, Thừa Thiên-Huế, Quảng Trị. Có ngày lính “Trâu điên” tiến công lên 303 hai đến ba lần, lớp lính trước tử trận chúng lại dồn lớp lính sau lên. Có những trận pháo của chúng bắn sau đội hình không cho lính tháo lui khi gặp phải sự chiến đấu kiên cường của bộ đội ta trên điểm chốt.
Điểm cao 303 không còn một ngọn cỏ, đất mới xới lên đất cũ sau mỗi trận pháo. Bộ đội ta hy sinh nếu không kịp chuyển nhanh khỏi trận địa có khi lại hy sinh đến hai, ba lần nữa! Càng không chiếm được 303, địch càng cay cú xua quân lên, trận địa nóng bỏng như lò nướng thịt người…
Cuộc chiến đấu ròng rã cho đến một ngày cuối năm thì chúng tôi được thay quân. Đó là đêm Ba mươi rạng ngày Mồng Một Tết năm 1973. Trước giờ chúng tôi bàn giao 303 cho đơn vị bạn vẫn xảy ra hai cuộc chiến đấu với lính “Trâu điên”. Đúng lúc Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi lời Bác Tôn chúc mừng năm mới cũng là lúc chúng tôi rời cao điểm. Chỉ còn lại lác đác mấy chục người, cuộc lui quân diễn ra trong đêm Giao thừa, người bị thương nhẹ thì đi được, người bị thương nặng thì phải cáng, trên những chiếc cáng ấy có những đồng đội của chúng tôi đã hy sinh từ buổi chiều hôm trước…
Hơn 40 năm trôi qua, năm tháng đã phai mờ nhiều ký ức, vậy mà hôm nay tôi giở lại trang nhật ký, những dòng chữ ấy vẫn như tươi nguyên. Có một điều thật kỳ lạ, dưới tầm bom đạn địch vậy mà chúng tôi vẫn sống, chiến đấu, lãng mạn, hồn nhiên không quản ngại hy sinh và tin tưởng vào một ngày toàn thắng. Những ngày ấy trên điểm cao 303 vào một buổi chiều tháng 1 năm 1973, tôi đã viết:
Tựa súng vào vách hầm đất đỏ
Dưới chiến hào tôi tập làm thơ
Thơ tôi viết trong tầm bom nổ
Giữa chiến trường trĩu nặng ước mơ
Nếu một mai không may tôi ngã xuống
Cho tôi mang theo cả thơ này
Xin gửi lại bạn hiền tôi-khẩu súng
Trái tim cuồn cuộn máu đang say…
Đoạn thơ ấy trích trong một bài thơ của tôi như một tuyên ngôn sống, tuyên ngôn của thế hệ chúng tôi, một thế hệ lớn lên trong mưa bom bão đạn.
THIẾU TƯỚNG HỒ ANH THẮNG