QĐND - Với bộ đội 559, với bộ đội Tây Nguyên, hai chữ Trường Sơn cho dù chiến tranh đã lùi xa 10, 20... hay dăm chục, một trăm năm sau nữa thì những năm tháng gian khổ hy sinh đầy chất bi hùng, huyền thoại vẫn mãi còn trong ký ức của họ bởi: Tây Nguyên ơi, ai một lần đến đó/ Suốt một đời nhớ lại vẫn thương nhau. Hay như câu thơ của nhà thơ Tố Hữu viết năm nào: Trường Sơn, đông nắng, tây mưa/ Ai chưa đến đó, như chưa rõ mình... Và, đối với những người cầm bút thì đề tài Trường Sơn còn mãi là tươi mới; đối với người đọc nhiều thế hệ, Trường Sơn cùng những người lính Trường Sơn năm nào mãi còn trong sử sách.
 |
Biểu diễn văn nghệ trên đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
|
Điều đặc biệt thú vị là những cuốn sách đầu tiên viết về Trường Sơn, Tây Nguyên là những người lính, những nhà văn quân đội. Người phải kể đầu tiên là nhà văn Nguyên Ngọc. Ra Bắc tập kết có chừng hai năm, ông cho trình làng luôn cuốn tiểu thuyết viết về Tây Nguyên nổi tiếng “Đất nước đứng lên”. Nhà văn Xuân Thiều cũng là nhà văn có những trang viết đáng nhớ về miền đất này. Trước khi về công tác ở "phố nhà binh”, ông đã có nhiều năm tháng chiến đấu dọc Trường Sơn với tư cách là phóng viên mặt trận với bút danh Nguyễn Thiều Nam. “Thôn ven đường” - tiểu thuyết; “Chiến đấu trên mặt đường” - ký sự cùng các truyện dài, truyện ngắn: “Chuyện làng Rapồng”, "Truyền thuyết quán tiên”… là những tác phẩm xuất sắc viết về cuộc chiến đấu anh hùng của bộ đội và nhân dân ta trên tuyến đường huyền thoại Trường Sơn những năm ác liệt. Có một vị tướng cùng thời với Nguyên Ngọc và Xuân Thiều viết ít nhưng kỹ tính trong văn chương là ông Nguyễn Chí Trung. Ông cũng là nhà văn “từ trong rừng ra”. Nói đến ông là người đọc nghĩ ngay tới “Bức thư làng Mực” viết năm 1969. “Bức thư làng Mực” như bài ca ca ngợi tinh thần chiến đấu hy sinh của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Ông là nhà văn có gắn bó máu thịt với Trường Sơn, Tây Nguyên...
Nhưng nhà văn “chính hiệu” Trường Sơn - 559 lại là nhà văn Lê Lựu. Ông nổi tiếng bởi các tiểu thuyết "Thời xa vắng”, "Chuyện làng Cuội” và nhiều cuốn sách khác viết về nhà quê, về nông thôn Bắc Bộ… nhưng người ta vẫn cứ bảo ông là nhà văn của 559 bởi vì ông vào Trường Sơn từ những năm đầu của công cuộc mở đường - mở rừng. Ông có tiểu thuyết “Mở rừng” viết về con đường huyền thoại này từ đầu những năm 70 của thế kỷ trước, nhưng có lẽ cái “công” lớn của ông với Trường Sơn không chỉ là tác phẩm, mà là ở chỗ đã quần tụ được rất nhiều nhà văn áo lính đến với miền đất này ngay từ những năm lửa khói… Hồi Lê Lựu còn công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, anh chị em viết văn, làm thơ, sáng tác bài hát, vẽ tranh về đề tài Trường Sơn từ các đơn vị, địa phương vẫn thường hay lui tới phòng ông. Nhà văn Nguyễn Việt Phương, các họa sĩ Đức Dụ, Phạm Lực, các nhà thơ Trọng Khoát, Trần Nhương… ở Tổng cục Hậu cần dường như tuần nào cũng có mặt.
 |
Nhà thơ Phạm Tiến Duật - "con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại”. Ảnh tư liệu.
|
Nói về những người lính, những nhà văn đã mang cả Trường Sơn hùng tráng vào văn học còn phải kể đến nhiều tên tuổi khác. Ấy là một Nguyễn Minh Châu với những “Dấu chân người lính”, “Những người đi từ trong rừng ra” cùng “Những cánh rừng đầy giấy bay”; một Nguyễn Khải với “Tháng ba ở Tây Nguyên”; một Khuất Quang Thụy “Trong cơn gió lốc”…, rồi một Trung Trung Đỉnh với cuộc “Lạc rừng ”, "Lính trận”... Đó là những tác phẩm văn xuôi xuất sắc viết về Tây Nguyên - Trường Sơn của các nhà văn áo lính. Những tác phẩm mà nói đến con đường huyền thoại Trường Sơn, nói đến một thời “xẻ dọc Trường Sơn” của dân tộc ta, người đời sau không thể không nhắc tới!
Riêng với thơ, có thể nói Trường Sơn là nét độc đáo và nổi bật của văn học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói riêng và cả nền văn học cách mạng nói chung. Những nhà thơ “ra đời trong bão táp” thời ấy thật đông đảo và lắm tài. Họ không chỉ là người lính cầm súng mà chính lòng yêu nước và tâm hồn lãng mạn cách mạng đã chắp cánh cho họ làm nên những bài thơ sống mãi với thời gian. Và cũng có thể nói, Trường Sơn đã “đẻ” ra cho đất nước thật nhiều nhà thơ. Có nhà phê bình văn học đã nói, chính các nhà thơ thế hệ chống Mỹ đã làm nên “một thời đại trong thơ ca Việt Nam”. Tôi cũng nghĩ như thế!
Nói về thơ viết về Trường Sơn là nói về những người lính trẻ ra trận với khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”; đồng thời cũng là năm tháng thật gian nan: Bom đạn, thiếu đói và sốt rét... triền miên nơi chiến trường này. Cái ống coóng của bộ đội - một cái ống bơ (vỏ đồ hộp) để đun nấu, cải thiện mà dường như người lính Tây Nguyên nào cũng biết. Lính ta đi đâu cũng mang nó theo để hễ gặp bất cứ thứ gì ăn được là bỏ vào, đun lên thành cái ăn. Đó là một nồi “thắng cố”, hổ lốn đủ thứ: Cua cá, tôm tép, rau củ... tất tật. Cái ống coóng đã được nhà thơ Thanh Thảo cảm hứng làm ra “Bài thơ ống coóng” - một bài thơ đặc sắc mà nhiều chiến sĩ Tây Nguyên đến nay còn nhớ:
Bài ca của chúng tôi
Là bài ca ống coóng
Hành trang quân giải phóng
Đơn giản nhất trên đời
Gian khổ, hy sinh là vậy nhưng vượt lên tất cả là tình thương đồng chí đồng đội. Với những người lính ở rừng, những năm tháng ấy, tình đồng chí đồng đội thật ít nơi nào, chiến trường nào sánh kịp:
Nhớ khi mình ốm giữa rừng
Vị thuốc Hùng tìm qua ba trái núi
Quả khế rừng nấu con cá suối
Thương mình Hùng hóa trẻ đi câu.
(Nguyễn Đức Mậu -
Nấm mộ và cây trầm)
Và nói đến thơ viết về Trường Sơn và những người lính Trường Sơn, không thể không nói tới nhà thơ-chiến sĩ Phạm Tiến Duật - một “danh nhân Trường Sơn”, một “con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại”, một nhà thơ của bộ đội Trường Sơn. Với những bài thơ về Trường Sơn những năm chiến tranh vừa hiện thực sinh động vừa lãng mạn, có cả “quầng lửa” có cả “vầng trăng”, có bom rơi, có máu đổ nhưng cũng có anh có em, có trai có gái, có “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”, có “khăn xanh khăn xanh phơi đầy nắng sớm”... Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu, người cũng có nhiều bài thơ hay viết về Trường Sơn có lần nói, chính anh Duật là người đầu tiên đã đưa được cả Trường Sơn vào thơ, về thành phố, về Hà Nội. Có những khi vui chuyện, nhà thơ nói, không có những năm ở Trường Sơn, không có Duật! Lại có lần ông kể lại một câu chuyện vui: “Khi nghe bài thơ Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây (được Hoàng Hiệp phổ nhạc thành bài hát cùng tên nổi tiếng) có người bảo cảm ơn mình vì câu thơ “muỗi bay rừng già cho dài tay áo”, mình cười: “Ô hay, sao lại cảm ơn Duật? Phải cảm ơn muỗi chứ!”.
Cho đến hôm nay, hơn nửa thế kỷ kể từ thời điểm “mở đường thắng lợi”, những bài hát “Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây” (thơ Phạm Tiến Duật, nhạc Hoàng Hiệp) cùng với các bài hát “Lá đỏ” (nhạc Hoàng Hiệp, phổ thơ Nguyễn Đình Thi), “Đêm Trường Sơn nhớ Bác” (nhạc Trần Chung, phổ thơ Nguyễn Trung Thu), “Bài ca Trường Sơn” (nhạc Trần Chung, phổ thơ Gia Dũng)… vẫn là những bài ca về Trường Sơn hay nhất, sống mãi với thời gian.
Tác giả bài thơ “Bài ca Trường Sơn”-nhà thơ Gia Dũng-vốn là lính Sư đoàn 312 anh hùng nhiều năm có mặt ở Trường Sơn. Ông viết “Bài ca Trường Sơn” với những câu đầy lãng mạn cách mạng: Trường Sơn ơi/ Nơi mà ta qua không một dấu chân người/ Có chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác/ Dừng ở lưng đèo mà nghe suối hát/ Ngắt một đóa hoa rừng cài lên mũ ta đi…
Nhà thơ Nguyễn Trung Thu là tác giả phần lời bài hát “Đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Rời mái trường Đại học Tổng hợp lên đường nhập ngũ, ông vượt Trường Sơn vào chiến đấu ở chiến trường B. Một đêm nghỉ lại giữa đại ngàn cũng trăng sao, cũng tiếng suối chảy, cũng tiếng hát đâu đây, ông chợt nhớ tới Bác Hồ-vị cha già dân tộc năm nào nơi núi rừng Việt Bắc… và trong ông bật lên thành thơ: Đêm Trường Sơn/ Chúng cháu nhìn trăng nhìn cây/ Cảnh về khuya như vẽ/ Bâng khuâng chúng cháu nghĩ/ Bác như đã đến nơi này/ Ơi, đêm Trường Sơn/ nghe tiếng suối trong như tiếng hát xa/ Mà ngỡ như từ Pác Bó suối về đây ngân nga… Bài thơ hoàn thành ngay sáng hôm sau khi ông và đồng đội tiếp tục cuộc hành quân đánh giặc. Sau khi được phổ nhạc, sức lan tỏa của bài thơ được lan rộng không chỉ với bộ đội Trường Sơn mà là mọi chiến trường và cho mãi đến tận hôm nay.
Đề tài Trường Sơn có sức sống thật lâu bền hay như người ta vẫn nói, ấy là mảnh đất mỡ màu cho những người cầm bút các thế hệ, đặc biệt là những nhà văn áo lính hôm nay...
Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý sinh ra ở vùng gió Lào cát trắng dưới chân dãy Trường Sơn vốn là lính của Binh đoàn 12 - bộ đội Trường Sơn. Những bài thơ đầu tiên của ông là những bài viết về Trường Sơn và ông được mọi người biết đến cũng là nhờ những bài thơ viết về Trường Sơn, trong đó nổi nhất là bài "Khát vọng Trường Sơn” viết dâng hương hồn 10.000 liệt sĩ đang nằm lại Nghĩa trang Trường Sơn với những câu: Mười nghìn Trường Sơn trong một Trường Sơn/ Mười nghìn bài ca trong bài ca lớn/ Mười nghìn cái tên đêm đêm mẹ nhắc/ Mười nghìn giấc mơ của mẹ chờ ta/ Mười nghìn con đò thương về bến đợi/ Mười nghìn hạt giống chưa về phù sa… Bài thơ được trao giải cao nhất trong một cuộc thi thơ do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức (năm 1996) và được tới 3 nhạc sĩ (Phạm Tuyên, Võ Thế Hùng, Văn Chừng) phổ nhạc thành ba bài hát cùng tên. Hơn 30 năm khoác áo quân nhân, trong đó có gần 20 năm là lính Trường Sơn, những trang viết của anh (cả thơ, bút ký, truyện ngắn) dường như trang nào, dòng nào cũng in đậm chất Trường Sơn, dấu ấn Trường Sơn.
Kỷ niệm 57 năm Ngày mở đường Trường Sơn-Đường Hồ Chí Minh (1959-2016), cũng là từng ấy năm có một đề tài Trường Sơn hiện hữu sáng ngời trong văn học, có một đội ngũ các nhà văn áo lính thế hệ sau nối thế hệ trước tâm huyết với đất và người Trường Sơn, gắn bó máu thịt với những trang viết về chiến tranh cách mạng và người lính. Đội ngũ nhà văn ấy, những trang viết ấy không chỉ góp phần làm phong phú thêm mà còn tạo nên nét độc đáo của văn học Việt Nam hiện đại.
Thập Tam trại, 5-2016
NGÔ VĨNH BÌNH