QĐND - Hà Nội mùa Đông 1946 - Hà Nội tháng 10-1954 là những dấu mốc không thể mờ phai trong lịch sử Hà Nội, trong lòng người dân Thủ đô. Đó là Hà Nội của những ngày “chiến đấu trong vòng vây” lửa khói bi hùng và lãng mạn; là Hà Nội những  ngày giải phóng tưng bừng vui đến rơi lệ với cờ hoa từ khắp "năm cửa ô đón mừng”...

Nhà thơ Tạ Hữu Yên.

Hà Nội mùa Đông 1946 đã đi vào văn học nghệ thuật với hình ảnh người chiến sĩ áo trấn thủ, mũ ca lô tay lăm lăm bom ba càng cùng lời thề “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”; đôi khi là với cây đàn trên chiến lũy... Hình ảnh ấy đã được phục hiện trong vở kịch Lũy hoa, tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, trong tiểu thuyết Đất nước của nhà văn Hữu Mai... (sau này đạo diễn Đặng Nhật Minh dựng thành phim Hà Nội mùa Đông năm 1946) cùng rất nhiều tác phẩm khác; trong đó ấn tượng hơn cả là những bài thơ, bản nhạc mang cảm hứng, mang khát vọng “trở về” của các chiến sĩ Thủ đô như bài hát Ngày về (nhạc Lương Ngọc Trác, phổ thơ Chính Hữu) và Tiến về Hà Nội của Văn Cao. Trong bài Ngày về   những câu: “Có đoàn người lên đóng trên rừng sâu/ Đêm nay mơ thấy trở về Hà Nội /...Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa/ Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng…”. Hoặc trong Tiến về Hà Nội của Văn Cao:  “Trùng trùng  quân  đi như sóng/ Lớp lớp đoàn quân tiến về…”. Tuy nhiên, cả Ngày về, cả Tiến về Hà Nội chỉ là những khúc ca nói về khát vọng, nói về quyết tâm, nói tới lời thề giải phóng Thủ đô, về lại Hà Nội của người chiến sĩ Thủ đô, của những người Hà Nội... Phải đến khi bài thơ Cảm xúc tháng Mười của nhà thơ Tạ Hữu Yên ra đời thì cái không khí chân thực của ngày giải phóng Thủ đô 10-10-1954 mới được phục hiện một cách chân thực và sinh động. Nguyên văn bài thơ như sau:

Không thể nói trời không trong hơn

Và mắt em xanh khác ngày thường

Khi đoàn quân kéo về mùa Thu ấy

Nhịp trống rung ba mươi sáu

phố phường.

 

Mẹ đứng hàng đầu rưng rưng nước mắt

Xốn xang mẹ thầm gọi các con

Anh chiến sĩ mến thương nhìn mẹ

Nghe niềm vui ấm cả tâm hồn.

 

Đêm, cái đêm rút qua gầm cầu

Anh, anh đã hẹn ngày mai trở lại

Sóng sông Hồng vỗ bờ hát mãi

Đỏ niềm tin là khúc khải hoàn ca.

 

Không thể nói trời không trong hơn

Và mắt em xanh khác ngày thường

Khi đoàn quân kéo về mùa Thu ấy

Nhịp trống rung ba mươi sáu

phố phường.

 

Một sớm Thu trong đất thắm sao vàng

Năm cửa ô xòe năm cánh rộng

Đoàn quân về nhấp nhô như sóng

Những ngôi nhà dường muốn cao thêm.

 

Tháng Mười ấy là khúc ca xanh

Khúc ca mở những chiến công đầy

Ôi Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội!

Nghìn năm vẫn một trái tim này.

 

Bài thơ được viết vào đầu năm 1974, và ngay sau đó, nhân kỷ niệm 20 năm ngày Giải phóng Thủ đô (10-10-1954 / 10-10-1974) đã được UBND thành phố Hà Nội trao giải nhất cho những sáng tác hay nhất về Hà Nội.

Sinh thời, tác giả bài thơ là nhà thơ, Đại tá Tạ Hữu Yên kể, bấy giờ ông công tác ở Chương trình Phát thanh Quân đội nhân dân. Có một lần đến giao ban ở Đài Tiếng nói Việt Nam, sau khi đọc bài thơ Cảm xúc tháng Mười thì cả hai nhạc sĩ Văn An và Nguyễn Thành đều muốn phổ nhạc. Mọi người trong Ban Văn nghệ đề nghị bốc thăm. May mắn thuộc về  nhạc sĩ Nguyễn Thành. Ca sĩ Kiều Hưng là người đầu tiên hát bài hát này tại phòng thu lớn ở 58 Quán Sứ-Hà Nội. Bài hát với những câu mở đầu thật Hà Nội, rất mùa thu; đồng thời cũng thật rộn ràng không khí tưng bừng xúc động của ngày vui giải phóng:

Không thể nói trời không trong hơn

Và mắt em xanh khác ngày thường

Khi đoàn quân kéo về mua thu ấy

Nhịp trống rung ba mươi sáu phố phường

Ngày ấy, ngày 10-10-1954,  bộ đội ta tiến về giải phóng thủ đô Hà Nội. Đoàn quân chiến thắng cùng cán bộ, đồng bào ra đi từ tháng 12-1946, sau 9 năm kháng chiến gian khổ, đoàn quân đã trở về trong khung trời phấp phới cờ đỏ sao vàng và trong vòng tay ấm áp của nhân dân Hà Nội giữa một ngày nắng đẹp đầy hoa...

Nhà thơ và nhạc sĩ bồi hồi nhớ lại “cái đêm ra đi đất trời bốc lửa...” cùng lời thề “sẽ trở về” của những người lính Trung đoàn Thủ Đô năm nào:

Đêm, cái đêm rút qua gầm cầu

Anh, anh đã hẹn ngày mai trở lại

Sóng sông Hồng vỗ bờ hát mãi

Đỏ niềm tin là khúc khải hoàn ca.

Và trong ngày khải hoàn hôm ấy, vượt lên hàng đầu là các mẹ mong tìm thấy con mình trong đoàn quân chiến thắng. Nét nhạc ở đây càng sâu lắng trong điệu thứ ấm áp chân tình lâng lâng và xao xuyến: 

Mẹ đứng hàng đầu rưng rưng nước mắt

Xốn xang mẹ thầm gọi các con

Anh chiến sĩ mến thương nhìn mẹ

Nghe niềm vui ấm cả tâm hồn.

Mùa thu trong xanh, năm cửa ô Hà Nội rộng mở đón đoàn con trở về. Nhịp điệu âm nhạc đã nhanh hơn, rộn ràng hơn. Nó chuyển động như nhịp thở của thơ, khi còn vương vấn những xúc cảm của ký ức, và cảm xúc như được nhân đôi trong lâng lâng và say đắm:

Một sớm Thu trong đất thắm sao vàng

Năm cửa ô xòe năm cánh rộng

Đoàn quân về nhấp nhô như sóng

Những ngôi nhà dường muốn cao thêm.

Tháng Mười, có một Hà Nội rực rỡ màu cờ và hoa với những hân hoan, nụ cười và câu hát. Ngày 10-10-1954, thủ đô Hà Nội hoàn toàn giải phóng. “Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về” đã cùng nắm tay "trùng trùng say trong câu hát”. Trong đoàn quân tháng Mười ấy, có một người nhạc sĩ trẻ tên Nguyễn Thành, một người con đất Hà thành đã trở về sau cái đêm “rút qua gầm cầu” cùng Trung đoàn Thủ Đô... Và như cùng “say trong câu hát” của bộ đội Hà Nội, của người dân Thủ đô năm ấy còn có tác giả bài thơ - nhà thơ quân đội Tạ Hữu Yên.

Nhạc sĩ Nguyễn Thành thời còn trong quân ngũ.

Nhà thơ Tạ Hữu Yên còn có các bút danh là Lê Hữu, Xuân Hữu, Ðông Xuân, Cử Tạ, sinh tháng 7-1927 tại thôn Ðông Hội, xã Ninh An, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình và mất năm 2013 tại Hà Nội.  Ông phục vụ trong quân đội hơn 40 năm, mang quân hàm đại tá, từng làm đủ các công việc: Chiến đấu viên, tuyên truyền viên, cán bộ địch vận, phóng viên báo viết, báo nói, biên tập viên rồi cán bộ quản lý xuất bản sách... Nhưng nói tới ông, ai cũng nghĩ ông là một nhà thơ, đồng tác giả của nhiều bài ca bất hủ.     

Nét nổi bật không thể không nói tới mỗi khi nói về Tạ Hữu Yên và thơ Tạ Hữu Yên, ấy là mối quan hệ giữa thơ và nhạc hay nói cụ thể hơn là những bài thơ của ông được phổ nhạc đã đạt đến con số kỷ lục, vượt mốc 130 bài! Có người viết: “Tạ Hữu Yên là nhà thơ có duyên với nhạc”, tôi nói đó là một “hiện tượng” hiếm thấy trong gia đình nhà văn Việt Nam hôm nay, bởi trước ông, chưa có một trường hợp nào như vậy hoặc tương tự như vậy.

Bên hồ Gươm, ngày 10-10-1954. Ảnh chụp lại.

Và nói về những bài thơ phổ nhạc của Tạ Hữu Yên, người ta không thể không nhắc đến những bài ca “đi cùng năm tháng” như: Đất nước (Phạm Minh Tuấn phổ nhạc), Đôi dép Bác Hồ (Văn An phổ nhạc), Bàn tay mẹ (do Minh Châu, Nguyễn Thụy Kha, Bùi Đình Thảo phổ nhạc) - một trong những bài hát viết cho thiếu nhi được bình chọn là hay nhất thế kỷ 20... cùng bài  Cảm xúc tháng Mười (Nguyễn Thành phổ nhạc).

Và “Cảm xúc tháng Mười” đã trở thành ca khúc bất hủ không thể quên về ngày giải phóng Thủ đô, là niềm rưng rưng xúc động giữa cờ hoa của người dân Hà thành trong cái náo nức, hồ hởi của nhịp điệu đoàn quân “Tiến về Hà Nội” năm ấy.

NGÔ VĨNH BÌNH