Nhớ

 

Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ thuở “Một hai”

Súng bắn chưa quen

Quân sự mười bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Lột sắt đường tàu

Rèn thêm đao kiếm

Áo vải, chân không

Đi lùng giặc đánh

Ba năm rồi gửi lại quê hương

Mái lều gianh

Tiếng mõ đêm trường

Luống cày đất đỏ

Ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân trên cối gạo canh khuya.

Chúng tôi đi

Nắng mưa sờn mép ba lô

Tháng năm bạn cùng thôn xóm

Nghỉ lại lưng đèo

Nằm trên dốc nắng

Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng

Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa

- Đằng nớ, vợ chưa?

- Đằng nớ?

- Tớ còn chờ độc lập!

Cả lũ cười vang bên ruộng bắp 

Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.

 

Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động

Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng

Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng

Tôi nhớ bờ tre gió lộng

Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau

Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau

Có tiếng gà gáy xóm

Có “Khai hội, yêu cầu, chất vấn

Có mẹ hiền bắt rận cho những đứa con xa

Trăng lên tập hợp hát om nhà.

Tôi nhớ

Giường kê cánh cửa

Bếp lửa khoai vùi

Đồng chí nớ vui vui

Đồng chí nớ dạy tui dăm ba chữ

Còn mô đồng chí nữa

Kể chuyện Bình Trị Thiên

Cho bầy tui nghe ví!

Bếp lửa rung rung đôi vai đồng chí:

- Thưa trong nớ hiện chừ còn vô cùng gian khổ

Đồng bào ta phải kháng chiến ra ri.

Đêm đó chúng tôi đi

Nòng súng nghiêng nghiêng

Đường mòn thấp thoáng

Trong điếm nhỏ mươi người trai tráng

Sờ chuôi lựu đạn

Ngồi thổi nùn rơm

Thức vừa rạng sáng

Nhìn trời sương nhẩm bước chúng tôi đi

Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni

Dân chúng cầm tay lắc lắc:

“Độc lập nhớ rẽ viền chơi ví chắc”!

                         1948  HỒNG NGUYÊN

 

QĐND - Dù không đề cập đến một sự kiện lịch sử cụ thể, nhưng bài thơ Nhớ của nhà thơ Hồng Nguyên làm sống lại giai đoạn lịch sử hồi đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chỉ qua bài thơ này thôi, một nhà xã hội học có thể biết được bao điều về xã hội Việt Nam ngày đó: Những người lính của chúng ta hình thành như thế nào, trang bị vũ khí ra sao, ý nghĩ của họ khi bước vào cuộc kháng chiến như thế nào. Hơn thế nữa, bài thơ còn khắc họa hậu phương người lính, tình cảm quân dân ngày ấy và bao điều khác nữa.

Bài thơ có đầu đề là Nhớ, tác giả viết năm 1948, nghĩa là chỉ hai năm sau Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ. Tác giả nhớ lại những kỷ niệm về đời lính trong hai năm đầu cuộc kháng chiến đó. Nếu không ghi năm bài thơ ra đời thì người đọc vẫn biết nói về người lính chống Pháp, chứ không phải thời chống Mỹ, chỉ riêng chi tiết “gặp nhau từ hồi chưa biết chữ” cũng đủ để khẳng định điều đó. Thời chống Mỹ, những người lên đường nhập ngũ hầu như không còn ai mù chữ, phần đông đã tốt nghiệp cấp hai, cấp 3, không ít người đã tốt nghiệp đại học. Còn trang bị cho người lính có những gì? “Lột sắt đường tàu rèn thêm đao kiếm”, bởi súng ống quá thiếu thốn, có khi cả tiểu đội, thậm chí trung đội mới có được một vài khẩu súng. Buổi đầu nhập ngũ, phần lớn phải dùng gậy, không chỉ thay súng để luyện tâp, mà ngay cả khi hành quân ra trận. Bởi thế có đao, kiếm được rèn từ tà vẹt, đường ray của vùng “tiêu thổ kháng chiến” là quý lắm rồi. Còn trang bị cá nhân ra sao? “Áo vải, chân không…”! Với bạn đọc bây giờ, khái niệm “áo vải” hơi khó hiểu, nhưng thời kháng chiến chống Pháp trở về trước, nói áo vải là nói loại áo bình dân, rẻ tiền của người lao động, đối lập lụa là, gấm vóc của giới quyền quý. Người ta gọi Nguyễn Huệ là người “anh hùng áo vải” cũng theo nghĩa ấy. Còn “chân không” thì ai cũng hiểu được: Chân trần, không giày dép. Trang bị thiếu thốn như vậy mà người lính vẫn lạc quan “Lòng vẫn cười vui kháng chiến”, vẫn chủ động tiến công kẻ thù: “Đi lùng giặc, đánh”!

Minh họa: Mạnh Tiến.

Thời chống Mỹ, nhiều nhà phê bình khen các nhà thơ như Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đức Mậu… đã đưa được nhiều chi tiết sinh hoạt của người lính vào thơ. Điều ấy đúng, nhưng người tiên phong việc này phải kể đến Hồng Nguyên trong bài thơ này. “Chúng tôi đi/ Nắng mưa sờn mép ba lô…”. Nếu tác giả không phải là người lính thì cũng phải lăn lộn nhiều năm với lính mới có mắt nhìn và nhận xét chính xác này. Với ba lô, các mép do cộm lên vì hai lần vải, nên bao giờ cũng sờn trước!

Nhà thơ Hồng Nguyên có con mắt quan sát thật tỉ mỉ, cụ thể trên bước đường hành quân của người lính và ghi lại những hình ảnh điển hình vừa tự nhiên, vừa đẹp, vừa nói được tình đồng đội trong thiếu thốn gian khổ:

“Nghỉ lại lưng đèo

Nằm trên dốc nắng

Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng

Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa”

Ba câu trên có thể quan sát bằng mắt, riêng câu thứ tư, nếu tác giả chưa từng trải thì khó có thể viết được “Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa”. Lính ta hành quân, đêm khi được dừng nghỉ lại, do mệt mỏi nên ngủ ngon lành. Nhưng đêm trời mưa, không có chăn đắp nên rét, chân vô thức quờ tìm hơi ấm. Mỗi lần đọc, mỗi lần thương!

Trong bài thơ này, tác giả đưa vào nhiều lời đối thoại, trước hết là đối thoại hết sức ngắn gọn, thân mật của người lính với cách xưng hô dân dã chứ không “điều lệnh” một chút nào khi gọi đồng chí của mình là “đằng nớ” và tự xưng là “tớ”! Nhưng qua câu trả lời “tớ còn chờ độc lập” nói lên được ý nghĩ của người lính thời chống Pháp. Ngày đó chúng ta có khẩu hiệu “Tổ quốc trên hết”. Người lính gác chuyện riêng tư để lên đường giết giặc, cứu nước. Đó không chỉ là ý nghĩ của người lính, mà của mọi người, kể cả dân quân, du kích, như mấy câu ca dao: “Chị em du kích Thái Bình/ Ca lô đội lệch vừa xinh, vừa dòn/ Người ta hỏi chuyện chồng con/ Lắc đầu nguây nguẩy: Em còn đánh Tây”.

Còn hậu phương người lính thì sao? “Mái lều gianh tiếng mõ đêm trường…/ Ít nhiều người vợ trẻ/ Mòn chân trên cối gạo canh khuya”, heo hút buồn, khác rất xa cảnh hậu phương làm ăn tập thể thời chống Mỹ, cứu nước. Nói về tình quân dân, không chỉ câu: “Có mẹ hiền bắt rận/ cho những đứa con xa” là nét đặc trưng thời ấy, ai cũng hiểu được, nhưng câu “giường kê cánh cửa” thì không dễ lĩnh hội đối với nhiều người. Tôi nhớ, trong chương trình “Tiếng thơ” của Đài Tiếng nói Việt Nam, một nghệ sĩ ngâm thơ nổi tiếng đã ngâm thành “giường kê cạnh cửa”, vì đối với bà, như thế mới hiểu được! Sự thật, “giường kê cánh cửa” là hình ảnh thật hay, thật xúc động nói về tình cảm quân dân thời ấy, “chật nhà nhưng rộng tình thương”. Nhà chật, không có giường thì gia chủ tháo cánh cửa nhà mình xuống kê thành giường cho bộ đội nghỉ, một cử chỉ rất quen thuộc ở địa phương khu Bốn thời chống Pháp.

Hậu phương thời ấy còn có những người dân quân mới làm quen vũ khí, được tác giả khắc họa thật cụ thể: “Trong điếm nhỏ mươi người trai tráng/ Sờ chuôi lựu đạn/ Ngồi thổi nùn rơm/ Thức vừa rạng sáng…”. “Sờ chuôi lựu đạn” ở đây không phải để sẵn sàng chiến đấu, mà vì lựu đạn mới được phát, chưa quen mang, nên mọi động tĩnh đều hết sức thận trọng với thứ vũ khí này!

Với thể thơ tự do phóng túng, bài thơ ôm chứa được nhiều chi tiết sống động. Như chúng ta đã biết, thể thơ tự do đã xuất hiện trước đó trong “phong trào Thơ Mới”, nhưng khi đó mức độ “tự do” còn hạn chế vì số chữ trong các câu thường như nhau, chỉ sau Cách mạng Tháng Tám và đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, thể thơ này mới phát triển hết cỡ, tiên phong là các nhà thơ quê Thanh Hóa như Trần Mai Ninh, Hồng Nguyên và Hữu Loan.

Dù bài thơ có nhược điểm là dùng hơi nhiều tiếng địa phương khu Bốn trong một số câu đối thoại có thể làm khó hiểu đối với bạn đọc các vùng khác, nhưng Nhớ của Hồng Nguyên vẫn là một trong số những bài thơ hay nhất viết về người lính chúng ta trong gần bảy chục năm qua.

VƯƠNG TRỌNG