Đợi anh về

K.XI-MÔ-NỐP

 

Em ơi đợi anh về

Đợi anh hoài em nhé

Mưa có rơi dầm dề

Ngày có dài lê thê

Em ơi em, cứ đợi.

 

Dù tuyết rơi gió nổi

Dù nắng cháy em ơi

Bạn cũ có quên rồi

Đợi anh về, em nhé!

 

Tin anh dù vắng vẻ

Lòng ai dù tái tê

Chẳng mong chi người về

Thì em ơi, cứ đợi!

 

Em ơi em, cứ đợi

Dù ai nhớ thương ai

Chẳng mong có ngày mai...

Dù mẹ già con dại

Hết mong anh trở lại

Dù bạn viếng hồn anh

Yên nghỉ nấm mồ xanh

Nâng chén tình dốc cạn

Thì em ơi, mặc bạn

Đợi anh hoài, em nghe

Tin rằng anh sắp về!

 

Đợi anh, anh lại về

Trông chết cười ngạo nghễ    

Ai ngày xưa rơi lệ

Hẳn cho sự tình cờ

 

Nào có biết bao giờ

Bởi vì em ước vọng

Bởi vì em trông ngóng

Tan giặc, bước đường quê

Anh của em lại về.

 

Vì sao anh chẳng chết

Nào bao giờ ai biết?

Có gì đâu em ơi

Chỉ vì không ai người

Biết như em chờ đợi.

Bản dịch Tố Hữu (1949)

QĐND - Văn học Xô-viết nói chung và Nga nói riêng in đậm dấu ấn trong lòng biết bao thế hệ bạn đọc Việt Nam. Trong nhiều tác phẩm của các nhà văn Xô-viết viết về cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại đã theo người lính Việt Nam ra trận trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược không thể không kể đến bài thơ “Đợi anh về” của nhà thơ Công-xtan-tin Xi-mô-nốp.

Công-xtan-tin Xi-mô-nốp (1915-1979) sinh ra trong một gia đình quý tộc ở Pê-trô-grát (nay là Xanh Pê-téc-bua), thân sinh ông là Thiếu tướng trong quân đội Nga hoàng đã hy sinh ở mặt trận. Như vậy, Xi-mô-nốp xuất thân từ một gia đình quân nhân, sinh ra trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, khi trưởng thành trực tiếp là người lính tham gia cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, nên phần lớn những tác phẩm của ông (thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, kịch bản phim…) viết về đề tài chiến tranh và người lính. Ông từng được phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lao động xã hội chủ nghĩa” (1974) và nhiều lần được tặng “Giải thưởng Lê-nin”, "Giải thưởng Nhà nước Liên Xô”… Năm 1972, Xi-mô-nốp sang thăm Việt Nam, đi thực tế nhiều vùng, chứng kiến cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ và tinh thần chiến đấu ngoan cường của quân và dân ta, ông đã sáng tác nhiều tác phẩm, bao gồm thơ, bút ký, kịch bản phim, trong đó có phim “Nỗi khổ không của riêng ai” đẫm chất nhân văn và lòng thông cảm… khá quen thuộc với khán giả Việt Nam.

 
 Minh họa: Mạnh Tiến.

Năm 1941, ông nhập ngũ, trực tiếp tham gia cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại và bài thơ “Đợi anh về” ra đời trong dịp ấy. Bài thơ xuất phát từ tình cảm riêng của chàng trai Xi-mô-nốp nói với người yêu của mình, nhưng khi tác phẩm đã hòa nhập vào cộng đồng thì không còn là chuyện riêng tư, cá biệt… mà đó là ý nghĩ chung của những người lính ở mặt trận muốn gửi gắm, căn dặn những người vợ, người yêu kiên tâm chờ đợi mình. Đầu đề bài thơ là một câu mệnh lệnh thức, nếu dịch đầy đủ phải là “Em hãy đợi anh về”. Bài thơ này đã có tác dụng to lớn không chỉ đối với những người phụ nữ Liên Xô có chồng, người yêu ở mặt trận trong thế chiến thứ hai, và qua bản dịch ra Việt ngữ (qua Pháp ngữ) năm 1949 của nhà thơ Tố Hữu, đã thâm nhập vào đời sống tinh thần của bao thế hệ trẻ chúng ta trong những cuộc chiến tranh lâu dài của dân tộc.

Cũng với đầu đề, điệp khúc “em ơi đợi anh về” được lặp đi, lặp lại nhiều lần. Đó không chỉ để nhấn mạnh lòng mong mỏi của người lính ở mặt trận đối với người yêu, người vợ ở quê nhà, mà một phần quan trọng là người lính thấy được sự chờ đợi ấy không hề đơn giản, đòi hỏi người hậu phương phải vượt qua bao thử thách. Trước hết là dằng dặc của thời gian xa cách, thời tiết thay đổi bất thường: Ngày dài lê thê, mưa rơi dầm dề, tuyết rơi, gió nổi, nắng cháy… Sự thay đổi của điều kiện tự nhiên dễ tác động, thay đổi lòng kiên định của con người, là thử thách trước hết người chờ đợi phải vượt qua.

Cái khó khăn tiếp theo là tác động của những người xung quanh: Đâu chỉ có một mình anh ra trận và một mình em chờ đợi. Nhưng ngay cả khi những người có hoàn cảnh như em, chờ đợi người ở mặt trận, họ không giữ được lời hứa thủy chung, không chờ đợi được nữa thì em hãy cứ đợi anh. Em hãy đợi anh cả khi không có tin tức anh, khi niềm hy vọng của sự chờ đợi không còn có nữa ở những người thân “Dù mẹ già, con dại/ Hết mong anh trở lại”. Và ngay cả khi nghe tin anh đã chết, “Dù bạn viếng hồn anh/ Yên nghỉ nấm mồ xanh…” thì em đừng tin chuyện đó, và hãy cứ đợi chờ anh và “Tin rằng anh sắp về”. Và phép mầu nhiệm của tình yêu đã có:

Tan giặc, bước đường quê

Anh của em lại về

Vì sao anh chẳng chết?

Và được lý giải:

Có gì đâu em ơi

Chỉ vì không ai người

Biết như em chờ đợi.

Sự trở về của anh đồng nghĩa với sự chiến thắng cuộc chiến tranh của toàn dân tộc, một niềm hạnh phúc lớn lao và diệu kỳ!

Phép mầu nhiệm của niềm tin, sự chờ đợi của người hậu phương đối với người lính ở mặt trận đã tăng thêm sức mạnh cho người lính để lập công. Chúng ta từng quen biết với bài thơ “Nhớ vợ” của tác giả Cầm Vĩnh Ui. Người lính xin phép cán bộ chỉ huy để về thăm vợ hai hôm, trên đường đi phải vượt qua bao hiểm nguy, nhưng anh tin mình sẽ vượt qua, không chỉ vì do kinh nghiệm của mình, mà cái chính là “Vì vợ tôi lúc nào/ Cũng mong chồng mạnh khỏe”. Phải chăng có sự tương đồng ý nghĩ về sức mạnh của niềm tin và sự chờ đợi của người vợ ở hậu phương của những người lính Xô-viết trong cuộc chiến tranh ái quốc và người lính Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược?

Bài thơ “Đợi anh về” qua bản dịch của nhà thơ Tố Hữu đã được phổ nhạc, thành ca khúc quen thuộc của người Việt Nam ta. Bản thân nhà thơ Xi-mô-nốp cũng đánh giá rất cao bản dịch này, và ông gọi đây là bản dịch “tuyệt vời”, bản dịch “đẹp”! Xi-mô-nốp đã làm một bài thơ tặng nhà thơ Tố Hữu và nói về cuộc hành trình hay số phận của “Đợi anh về”. Khi còn chiến tranh, khi còn những người vợ đợi chờ người chồng ở mặt trận… thì “Đợi anh về” vẫn sống trong lòng người, nhắc nhở lòng thủy chung chờ đợi:

Một phần tư thế kỷ súng

không ngừng!

Những người vợ góa vẫn đi ra mộ

Vẫn chờ đợi, thì thơ tôi còn đó

Còn sống trong bản dịch đẹp

của anh.

Nhưng khát vọng của nhà thơ Xi-mô-nốp cũng như khát vọng của triệu người là không còn chiến tranh:

Tôi cầu mong ngày ấy đến

cho nhanh

Trên con đường đến tự do dằng

dặc

Ngày mà thơ, cũng như người,

kết thúc

Cuộc hành quân trong bản dịch

của anh.

(“Gửi đồng chí Tố Hữu…”,Thơ Xi-mô-nốp, Nguyễn Việt Thắng dịch).

Điều mong mỏi của Xi-mô-nốp thật chính đáng và nhân văn. Nhưng, hình như cái đích thế giới hết chiến tranh còn xa xôi lắm, trước bao mưu mô của những thế lực gây chiến. Vậy nên, “Đợi anh về” vẫn còn sống lâu dài trong lòng bạn đọc, góp phần thúc đẩy, tôn vinh lòng chung thủy của người hậu phương, một nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh và chiến thắng của người lính ở mặt trận.            

VƯƠNG TRỌNG