Sinh động ngay từ những dòng, những chương đầu tiên. Chương “Chuẩn bị”, tác giả viết: “Những ngày đầu năm 1965, đâu đâu cũng căng thẳng một không khí chuẩn bị cho cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước. Chung quanh Hà Nội, trên các cánh đồng xuất hiện các khẩu súng cao xạ nòng ngẩng cao, chĩa lên trời. Đêm đêm các đoàn xe xích dài ngoẵng chưa từng thấy ầm ì kéo theo những quả tên lửa cồng kềnh... Ven sông Hồng, sông Đuống mọc lên những công trường làm cầu phao qua sông, ánh đèn lấp lóa suốt đêm. Trên các đường phố Hà Nội, từng đoàn thanh niên khoác lá ngụy trang, vai mang ba lô tập hành quân chiến đấu...”.

leftcenterrightdel
Trang bìa của cuốn sách. 

Tác giả của những trang mở đầu rất văn chương trong cuốn “Tây Nguyên ngày ấy” lại không phải là một nhà văn mà là một bác sĩ-bác sĩ Lê Cao Đài, một sĩ quan quân y, một chiến sĩ Quân giải phóng, một nhà khoa học, một người thầy thuốc anh hùng!

“Tây Nguyên ngày ấy” được Nhà xuất bản Lao động xuất bản năm 1997, dày hơn 500 trang, tái bản năm 2004. Sau khi tác giả mất, cuốn sách đã được họa sĩ Vũ Giáng Hương, vợ của ông bổ sung và tái bản năm 2008. Cuốn sách đồng thời được nhiều nhà xuất bản in lại và cũng đã được dịch và xuất bản với 3 thứ tiếng: Anh, Pháp và Nhật...

leftcenterrightdel
“Cuộc chia ly ngày ấy”-tranh của họa sĩ Vũ Giáng Hương. 

Những ai đã vượt Trường Sơn ngày ấy, đọc “Tây Nguyên ngày ấy” hẳn sẽ lại nhớ về những ngày ác liệt, gian khổ, thiếu đói trên chiến trường này và nhớ về câu thơ mà bất cứ chiến sĩ Tây Nguyên năm xưa nào cũng thuộc: Tây Nguyên ơi ai đã từng qua đó/ Suốt cuộc đời nhớ lại vẫn thương nhau. Nhà văn Tô Hoài viết: “Tây Nguyên ngày ấy” là tài liệu sống, chẳng những bổ ích cho bài học hôm nay mà còn cần thiết cho lịch sử hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc”.

Qua “Tây Nguyên ngày ấy”, không chỉ thấy được hình bóng những chiến sĩ áo trắng trên chiến trường mà cả sự hy sinh thầm lặng của họ. Trong lời tựa cuốn sách, Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo viết: “Người bác sĩ quân y ở chiến trường phải làm tất cả: Cầm dao kéo mổ, cầm xẻng đào công sự, cầm cuốc để sản xuất, cầm súng để chiến đấu, cầm bút để viết lý luận... Thật xúc động khi đi qua Bệnh viện Quân y 211, tôi gặp bác sĩ Đài-Bệnh viện trưởng, quần xắn đến đầu gối đứng trên đồi đang chỉ cho cán bộ, nhân viên của mình tìm nương phát rẫy để sản xuất. Trong chiến dịch mùa đông 1967, trên đường ra mặt trận, tôi cũng thấy các bác sĩ, y sĩ, nhân viên quân y sát cánh với anh chị em vận tải, dân công đang tấp nập gùi thồ lương thực, đạn dược ra phía trước...”.

Đọc “Tây Nguyên ngày ấy”, bạn đọc hiểu được nỗi lòng của tác giả, bởi vì ông vừa là một nhà khoa học, một nhân chứng, đồng thời cũng là một nạn nhân chất độc da cam.

Trong cuốn sách của mình, bác sĩ Lê Cao Đài cho biết: Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ sử dụng nhiều loại vũ khí sát thương rất tàn độc, nhất là bom B-52, mìn và chất độc hóa học. Những năm 1967, 1968 và 1969, các đợt oanh kích bằng B-52 diễn ra liên tục, cả ngày lẫn đêm. Đợt bom thứ nhất vừa dứt, sẽ có đợt thứ hai-thường là 30 phút hoặc 45 phút nhưng cũng có khi là 1 tiếng đồng hồ. Bom B-52 tuy có thể nổ cách xa hầm hàng trăm mét, nhưng sóng xung kích vẫn làm vách hầm rung lên, cơ thể chịu tác động của sóng ấy sẽ gây ra những chấn thương cho gan, phổi, thận… Có loại bom lân tinh (phosphorus) nếu văng trúng người, nó cháy âm ỉ, cháy vào đến tận xương, có dìm cả vết cháy xuống nước thì nó vẫn cháy. Tác giả cho biết thêm, có loại mìn-bộ đội quen gọi là mìn cóc - khi đạp phải, nó nhảy lên cao ngang tầm đầu gối rồi mới nổ. Tuy không gây chết ngay lập tức, nhưng nó xé nát các cơ bắp ở chân y như người ta róc cây mía. Khi đó, sẽ phải có 2 người khiêng thương binh về trạm phẫu thuật và như vậy, vô hình trung kẻ địch đã tạm thời loại ra khỏi vòng chiến đấu 3 người... Ngoài mìn cóc còn có mìn lá, hình dáng và kích thước y như chiếc lá cây nên rất khó phát hiện. Bên cạnh đó là mìn dây. Được thả từ máy bay mỗi lần vài trăm quả, khuếch tán trong phạm vi từ 1 đến 1,5km, lúc chạm đất nó bắn ra các hướng 6 hoặc 8 sợi dây bẫy rất mảnh, trùng với màu lá cây, chỗ xanh chỗ úa.

Cũng trong tác phẩm của mình, bác sĩ Lê Cao Đài cho biết: Gay go nhất là việc bảo đảm vô trùng. Nằm trong hầm bốn vách tường đều là đất. Trần hầm cũng đất. Trời mưa, nước mưa thấm qua nóc, rỉ qua các rễ cây, rỏ ròng ròng vào trong hầm đọng lại thành từng vũng nước trên nền. Anh chị em y tá đã có nhiều cố gắng, dùng đủ mọi cách có thể làm được trong hoàn cảnh dã ngoại để bảo đảm sạch sẽ, vô trùng. Căng che ni-lông bốn phía và trên nóc hầm. Hấp toàn bộ quần áo, chăn màn, vải bạt, lau rửa vệ sinh giường nằm. Trước khi mổ, tắm rửa, làm vệ sinh toàn thân và cọ rửa xà phòng quanh chỗ mổ, thay quần áo hấp. Nhờ vậy số trường hợp mổ nặng đều bảo đảm vô trùng. Những vết mổ ngực, bụng, mổ mạch máu đã không bị mủ và liền sẹo kỳ đầu. Tác giả ngoài việc ghi chép những “chuyện thường ngày” của các bác sĩ ở bệnh viện dã chiến còn đặc biệt đề cao vai trò của đội ngũ y tá, hộ lý, nhân viên. Ông viết: “Cô Đức, nữ y tá, một mình phụ trách 7 hầm thương binh nặng. Suốt ngày cô đi lại như con thoi, giặt quần áo, thay băng, cho ăn uống, giúp họ vệ sinh. Có thương binh như anh Toàn, bị vết thương bụng, phân chảy dầm dề suốt ngày. Một ngày thay 3-4 bộ quần áo, ba lần thay băng mà vẫn ướt. Hội chẩn có ý kiến đề nghị mổ. Nhưng rõ ràng là yếu quá không thể mổ được. Phải nuôi dưỡng, nâng đỡ sức khỏe cho khá lên. Tôi kết luận cuộc hội chẩn: “Cứu được đồng chí Toàn bây giờ không phải là tôi hay bác sĩ Thuyên, mà là cô Đức, cô Sa!...”.

leftcenterrightdel
Bác sĩ Lê Cao Đài tại chiến trường Tây Nguyên. Ảnh tư liệu. 

Trong “Tây Nguyên ngày ấy”, tác giả còn cho hay: Giữ được tỷ lệ sống khá cao đối với thương binh, bệnh binh nhưng số tử vong ở Bệnh viện Quân y 211 cũng xấp xỉ 10 người/tháng. Vì lý do an ninh cũng như không để kẻ địch biết về sự tổn thất của Quân Giải phóng, sau khi ghi vào hồ sơ lưu trữ, người chết được chôn cất bằng cách bọc ni-lông vào thi thể, trong miệng đặt một cái lọ thủy tinh vốn dùng đựng thuốc kháng sinh pê-ni-xi-lin, có một mảnh giấy ghi họ tên, quê quán, năm sinh, ngày mất. Miếng giấy được bôi mỡ - loại mỡ chùi súng để bảo đảm không bị ướt, mục rồi đặt vào quan tài làm bằng tre. Không một tấm bia hoặc dấu vết nào trên những ngôi mộ ngoại trừ vài nhát khắc vào một thân cây mọc gần đó. Tuy nhiên, theo thời gian, cây lớn lên, hình dạng địa thế ban đầu thay đổi, hoặc do bom đạn, thiên tai, cây ngã đổ, cháy, còn những người trực tiếp tham gia việc chôn cất thì hoặc chết, hoặc do tuổi tác chẳng còn nhớ chính xác vị trí nên việc quy tập về sau rất khó khăn...

Với đồng đội, với thương binh, bệnh binh, với những đồng chí hy sinh, những suy nghĩ và việc làm ấy của các bác sĩ thật nghĩa tình!  

Ngày 22-5-1973, sau 8 năm (từ 1965 đến 1973), bác sĩ Lê Cao Đài được lệnh quay ra Bắc và qua kiểm tra sức khỏe, ông biết mình đã nhiễm chất đi-ô-xin với nồng độ 215 PPT, cao gấp 100 lần người bình thường, hệ quả của 8 năm ở chiến trường, trong đó nhiều năm Viện Quân y 211 nằm trong vùng trọng điểm của chiến dịch rải thuốc khai quang của quân đội Mỹ. Trong nhật ký, ông viết: “Đêm nào cũng có năm đến sáu đồng đội của tôi ra đi... Ngày ấy do không hiểu chất độc da cam gây ra suy giảm miễn dịch nên tôi cứ nghĩ các đồng chí ấy ra đi vì ăn uống kham khổ nên suy kiệt. Tôi đã lầm”!

Dù mang trong mình trọng bệnh, bác sĩ Lê Cao Đài vẫn lạc quan và tích cực làm việc trong các lĩnh vực liên quan đến chiến tranh, chẳng hạn như tình trạng ô nhiễm chất đi-ô-xin ở Biên Hòa, Đà Nẵng, Quảng Trị, Plei-cu, Kon Tum. Năm 1980, ông được phong hàm Phó giáo sư và năm 1984, là Giáo sư. Ông cũng là người đặt những viên gạch đầu tiên cho sự hợp tác quốc tế trong vấn đề nghiên cứu chất đi-ô-xin.

Giáo sư Lê Cao Đài đã nhiều lần đến Mỹ để thuyết trình về chất độc da cam và nỗi đau mà hàng triệu người Việt Nam đang phải gánh chịu. Là Giám đốc Quỹ Hỗ trợ nạn nhân da cam, giáo sư cũng là người đầu tiên nêu vấn đề khởi kiện các công ty sản xuất chất đi-ô-xin đã rải xuống miền Nam Việt Nam.

Những ngày cuối cùng trên giường bệnh vì chứng viêm tụy, Giáo sư Lê Cao Đài vẫn không rời chiếc máy vi tính. Ông nói: “Tôi làm việc đến khi chết thì thôi, không nằm sẵn trong quan tài chờ đợi cái chết”.  Ngày 15-4-2002, Giáo sư, bác sĩ Lê Cao Đài trút hơi thở cuối cùng trong niềm thương tiếc của người thân, đồng nghiệp và đồng đội!

                                                                                                                                                                                    Thập Tam trại, tháng Giêng năm Đinh Dậu-2017

 

NGÔ VĨNH BÌNH