- Tòa soạn mới nhận được thư của một cháu ở Tiền Giang gửi nhờ báo tìm tung tích của người cha đã hy sinh. Anh đọc kỹ rồi cùng tôi bàn cách giải quyết.
Tôi ngồi vào bàn đọc ngay. Lá
thư ngắn nhưng nét chữ khá đẹp và rõ ràng:
“Kính thưa các bác, các chú Báo Cựu chiến binh Việt Nam.
Cháu tên là Trần Thị Hương, sinh năm 1961 tại huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Ba cháu là Trần Văn Luông, là bộ đội của Sư đoàn 330 Nam Bộ, ra Bắc tập kết năm 1955. Trong thời gian ba cháu đóng quân tại Thanh Hóa, ba đã gặp và yêu mẹ cháu là Hoàng Thị Xuân, hai người đã kết hôn vào khoảng cuối năm 1960. Năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, ba Luông đã đem mẹ con cháu về quê sinh sống, tại thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang cho tới ngày hôm nay. Từ nhỏ tới lớn, cháu luôn được ba yêu thương, chăm sóc chu đáo. Mẹ và các em cháu cũng được ba yêu thương hết lòng.
Năm 1986, do một cơn bệnh nặng, ba Luông phải vào bệnh viện điều trị dài ngày. Trong những ngày nằm viện, ba luôn muốn có cháu túc trực bên giường bệnh của ông. Cho tới một buổi chiều, khi đó sức của ba đã quá yếu, mà trong phòng bệnh chỉ có hai cha con, ba đã dùng hơi tàn lực kiệt cố sức ôm ghì cháu vào lòng và nói trong hơi thở đứt quãng: “Con ơi! Ba chỉ là ba nuôi của con thôi. Ba ruột của con là ông Nguyễn Văn Bính, cùng đơn vị với ba, người gốc Tây Ninh. Ba Bính con đã hy sinh từ năm 1962 tại miền Đông Nam Bộ. Con cố gắng tìm về quê cha đất tổ để còn thờ cúng ông bà và ba ruột của con. Ba xin lỗi vì đã giấu con điều thiêng liêng này cho tới ngày hôm nay”. Nói tới đây, ba nấc lên mấy tiếng rồi trút hơi thở cuối cùng! Cháu ôm chặt ba và òa lên khóc thảm thiết cho tới khi ngất đi lúc nào không biết.
Kể từ ngày ba Luông qua đời tới nay, cháu luôn ghi nhớ từng lời ba trăng trối. Những lúc buồn, cháu lại mường tượng về một người nào đó mới chính là ba ruột của mình. Cháu vặn hỏi mẹ thì lại bị mẹ la mắng và phủ nhận lời nói của ba Luông.
Cháu viết thư này với nguyện vọng qua thông tin trên báo, các bác, các chú cựu chiến binh và bà con cô bác có ai biết ông Nguyễn Văn Bính người gốc Tây Ninh, nguyên là bộ đội Sư đoàn 330 ra Bắc tập kết rồi lại trở về miền Nam chiến đấu và hy sinh thì cho cháu biết…”.
Đọc xong lá thư, tôi ngồi lặng đi vì xúc động. Đọc lại thêm vài lần nữa, tôi sang tìm anh Vũ Linh. Hai anh em trao đổi với nhau về nội dung lá thư, phương án giải quyết và được sự đồng ý của lãnh đạo, tôi tức tốc bắt xe đò đi Tây Ninh. Nơi đầu tiên tôi đến là Hội Cựu chiến binh tỉnh Tây Ninh. Nghe tôi trình bày và qua đọc lá thư của cháu Hương, các anh thường trực hội đều có chung nhận định, đây là một trường hợp khá đặc biệt, rất cần có sự hợp đồng để giải quyết và hứa sẽ tận tình phối hợp với chúng tôi. Tín hiệu đầu tiên đáng mừng với chúng tôi là số anh em nguyên là bộ đội Sư đoàn 330 về sống rải rác ở Tây Ninh cũng còn trên dưới chục người. Trong số anh em này có thể sẽ có người biết đồng chí Bính. Để tăng thêm khả năng tìm kiếm, chúng tôi thống nhất sẽ liên hệ với Báo Tây Ninh và Đài Phát thanh tỉnh Tây Ninh để nhờ hai cơ quan này đăng, phát tin cùng yêu cầu tìm thông tin về người bố của cháu Hương…
Vào một ngày, chúng tôi nhận được điện thoại của một người xưng là Nguyễn Văn Bính, ở xã Thanh An, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Ông cho biết, qua thông tin trên đài về tình cảnh của cháu Hương đi tìm ba, ông không thể ngờ rằng giọt máu thất lạc của ông đã mấy chục năm nay, giờ lại đang lặn lội đi tìm ông. Qua chúng tôi, ông bày tỏ nguyện vọng muốn tìm đến Mỹ Tho để trực tiếp gặp bà Xuân và cháu Hương càng sớm càng tốt. Chúng tôi cũng được biết thêm, trước khi nghỉ hưu, ông là Đại tá, công tác ở cơ quan hậu cần của Bộ tư lệnh Quân khu 7. Anh Vũ Linh nhìn tôi đầy băn khoăn. Liệu có gì sai sót trong chuyện này không? Vì trước đó, cũng có người xác nhận thông tin quen biết anh Bính và trường hợp hy sinh của anh. Vậy là có hai người cùng tên Bính, cùng là bộ đội tập kết, đều cùng quê Tây Ninh rồi trở về quê hương chiến đấu? Thật bất ngờ và khó xử. Tuy vậy, như có linh tính mách bảo, anh Vũ Linh vẫn tiếp thu lời ông Bính-người gọi điện thoại, khuyên ông hãy bình tĩnh, đợi một ngày không xa chúng tôi sẽ đưa cháu Hương đến tận nhà nhận ba.
Chúng tôi nhanh chóng báo cho cháu Hương biết những thông tin vừa có được. Sau đó, tôi và Đại tá Nguyễn Bội Giong (nguyên thư ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp), lúc bấy giờ là cán bộ của Hội Cựu chiến binh thành phố, trực tiếp dẫn cháu Hương tới xã Thanh An tìm ông Nguyễn Văn Bính. Ngay từ phút đầu gặp chúng tôi, ông Bính đã ôm chầm lấy cháu Hương và chửi:
- Cha bố cái thằng Luông. Nó làm cha con tao xa nhau mấy chục năm trời!
Nghe ông Bính chửi vậy, cháu Hương càng khóc to hơn và vội nói:
- Không phải như ba nghĩ đâu, ba Luông là người rất tốt. Không có ba Luông thì con cũng không còn có cơ hội gặp lại ba như hôm nay.
Được biết hôm đó chúng tôi dẫn cháu Hương về nhận ba, vợ con ông Bính đều ở nhà chờ đón. Bà con chòm xóm tụ đến mỗi lúc một đông để tận mắt nhìn thấy cô con gái của ông Bính bị thất lạc cha mấy chục năm trời. Điều mọi người tò mò muốn tìm hiểu là cha con ông Bính thất lạc nhau trong hoàn cảnh nào?
Sau những giây phút đoàn tụ đầy xúc động, cả mấy chục con người già trẻ, gái trai đều ngồi im lặng nghe cháu Hương kể:
- Sau khi được các bác cựu chiến binh báo tin ba Bính cháu còn sống, qua linh tính, mẹ cháu tin ngay điều này. Mẹ cứ hết khóc kêu tên ba cháu rồi lại trách: “Ới ông Bính ơi! Ông là người hay là ma. Nếu ông còn sống thật thì sao ông ác đến thế. Ông bỏ mặc mẹ con tôi mấy chục năm trời. Tôi không cho ông nhận con đâu, tôi không thiết nhìn mặt ông nữa”.
Sau một ngày khóc than vật vã, dần rồi mẹ cũng bình tĩnh lại. Và cũng đến lúc không còn cách nào giấu được sự thật về cuộc đời bà nữa. Đêm hôm đó, hai mẹ con thức suốt và mẹ cháu đã kể cho cháu nghe về tất cả những chuyện đã qua trong cuộc đời của bà:
“Năm 1956, bộ đội Sư đoàn 330 về đóng quân ở Nông Cống đông lắm. Không nhà nào không có bộ đội đến ở. Nhà ông bà ngoại ngày đó có tới bốn, năm anh (trong đó có anh Bính và anh Luông). Ngày đó, mẹ là cô gái nông thôn mới lớn nhưng cũng ưa nhìn. Thời gian trôi qua và dần dần mẹ cũng gần gũi các anh như anh em ruột thịt trong nhà. Qua ánh mắt, cử chỉ và lời nói, mẹ thấy anh Bính có cái gì đó quan tâm đến mẹ nhiều hơn, mẹ cũng cảm thấy quý mến và gần gũi anh Bính hơn. Khi anh Bính đi công tác vài ngày, mẹ đã cảm thấy nhơ nhớ. Rồi tình yêu giữa mẹ và anh Bính nảy nở từ lúc nào mẹ cũng không hay. Ngay từ lần đầu tiên anh Bính ngỏ lời yêu mẹ, anh đã nói thật lòng: “Anh là người tỉnh Tây Ninh. Trước khi đi tập kết, anh đã có vợ và một đứa con nhưng gần đây anh được tin vợ con anh đã bị bom Mỹ giết hại. Em có thật lòng thương yêu anh thì hãy thông cảm cho anh điều này”.
Mẹ và anh Bính yêu nhau, dù cả hai đều cố giữ bí mật nhưng chẳng bao lâu tin tức đã lan ra khắp làng… Mẹ không lo ngại điều đó vì mẹ yêu bố Bính thật lòng. Chỉ có một điều làm mẹ hơi khó xử. Đó là việc cùng lúc bác Luông cũng đem lòng yêu thương mẹ. Có lần bác Luông đã đặt vấn đề thẳng với mẹ và xin mẹ chấp nhận, mặc dù mẹ đã trả lời: “Em cũng không ghét bỏ gì anh, nhưng nay em đã trót nhận lời yêu anh Bính bạn của anh rồi…”.
Chỉ sau một thời gian ngắn thì bố Bính được điều đi đơn vị khác và nhận lệnh lên đường trở lại miền Nam chiến đấu. Khi đó, mẹ đã có giọt máu là con trong bụng. Phải xa người yêu, nhưng điều làm mẹ đau đớn nhất là trong việc bố bị điều đi đột ngột có sự tham gia của bác Luông. Bác ấy đã đi báo cáo cấp trên chuyện bố Bính đã có vợ con ở quê mà còn yêu người khác. Mẹ dồn đau đớn và bực tức lên đầu bác Luông. Bác xin lỗi và bảo rằng không hề biết là vợ con anh Bính đã bị bom Mỹ giết hại. Bác xin được chăm sóc hai mẹ con nhưng mẹ không nghe, thậm chí còn định quyên sinh. Bác ngăn lại và chính vì câu nói: “Phải nghĩ tới đứa con trong bụng” của bác Luông nên mẹ đã quyết định lấy bác để con có ba.
Khoảng cuối năm 1962, mẹ nhận được tin ba Bính của con đã hy sinh tại Tây Ninh. Mẹ và ba Luông đều xót xa và âm thầm thương tiếc ba con. Cũng từ ngày đó, mẹ và ba Luông không còn hy vọng ba con có ngày trở về nhận con nữa. Ba Luông càng tỏ ra ân hận và kiên quyết nuôi con khôn lớn thành người.
Đến ngày ba Luông bệnh nặng chắc là suy nghĩ nhiều lắm. Mấy chục năm qua, ba Luông đã hoàn thành nhiệm vụ nuôi con khôn lớn, nay ba sắp qua đời thì phải có nghĩa vụ cho con biết người cha ruột của con và nguồn gốc tổ tiên, ông bà. Khi nóng thì mẹ giận ba Luông vì không giữ lời hứa, nhưng khi bình tĩnh thì mẹ thấy ba Luông làm đúng. Mẹ thật sự xin lỗi con vì đã bao năm giấu con những điều thiêng liêng này. Bây giờ mọi chuyện đã khác. Ba Bính con nếu còn sống thật thì đó là phước của con còn dày lắm. Trời phật thương con, mẹ cũng mừng. Phận mẹ là thế, mẹ cam chịu. Chỉ mong sau này con gặp ba Bính thì con nói về ba Luông như những gì con biết để ba Bính thông cảm hoàn cảnh, không còn giận ba Luông nữa… Vì nghĩ cho cùng, lỗi ngày xưa giữa hai người cũng chỉ do hiểu lầm hoàn cảnh của nhau…!”.
Cả mấy chục con người ngồi trên ghế, trên phản và trên nền nhà nghe cháu Hương kể mà không ai cầm được nước mắt.
Cuộc liên hoan mừng cha con ông Bính sau mấy chục năm xa cách giờ được sum họp đã làm nỗi buồn chiến tranh qua mau.
Theo nguyện vọng của ông Bính, chúng tôi cùng cha con ông về Mỹ Tho thăm bà Xuân và cùng thắp lên mộ ông Luông những thẻ hương thơm nhất để nhớ về người đồng đội đã khuất...
TRỊNH DUY SƠN