QĐND - Đây là một nhân vật lịch sử đã hóa thánh, trở thành nhân thần với danh hiệu tôn xưng từ thời nhà Lê là "Đô Hồ Đại thần" và từ thời nhà Nguyễn là "Đô Hồ Đại vương".

Tên thật của ngài là Phạm Tu. Trong những trường hợp kính cẩn xướng danh, thì chữ "Đô" ở đầu các danh hiệu tôn xưng được đem ghép vào tên thật, thành "Phạm Đô Tu".

Phạm Đô Tu được thần tích ghi là sinh ngày 10 tháng Ba năm Bính Thìn, 476 sau Công nguyên.

Nơi sinh hạ của ngài là: Thôn Vực, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, ngoại thành phía Nam Hà Nội. Tòa "Miếu Vực", xây trên đất "nền sinh Thánh" từ rất lâu đời, vừa hoàn thành việc tôn tạo khang trang, ghi dấu cụ thể và trực tiếp nơi chỗ ngài chào đời, chính là ngôi nhà cũ của hai đấng song thân Phạm Thiều và Lý Thị Trạch.

Chân dung Phạm Tu được nhân dân vẽ đặt thờ tại Đình Ngoại. Ảnh tư liệu.

Miếu-cũng như thôn làng-có tên là "Vực", bởi tọa lạc trên một gò đất cao, trông ngay ra "vực" nước sông Tô Lịch, chỗ nguồn sông nối với dòng Nhuệ Giang, dồn sóng về xuôi mà nhập hòa cùng nguồn nước sông Mẹ (tức sông Cái, sông Hồng) ở trung tâm kinh kỳ Thăng Long, mà nửa thiên niên kỷ sau sẽ được vua Lý Thái Tổ khai sinh.

Miếu Vực, ngoài và cùng với thế đất thì còn có một tên gọi rất "quân sự" nữa là: "Cổng Đồn". Bởi lẽ, đấy chính là nơi thần tích và ký ức hồi cố trong dân gian nói rõ là chỗ đóng quân và rèn luyện binh sĩ của tướng quân Phạm Đô Tu.

Vậy là, từ nơi quê hương sinh thành ở đầu nguồn sông Tô Lịch này, tướng quân Phạm Đô Tu đã có những chuyến đi xuôi theo dòng lịch sử mà tới những miền chiến công rực rỡ non sông hồi giữa thế kỷ thứ sáu.

Đầu tiên là vào cuối năm Tân Dậu, tức tháng 1-542, khi Anh hùng dân tộc Lý Bí dựng cờ khởi nghĩa chống giặc nhà Lương ở phương Bắc sang đô hộ, tướng quân Phạm Đô Tu-lúc này đã ở tuổi 66 nên phải gọi đúng là lão tướng-đã lập tức đưa lực lượng đến đứng dưới cờ, tham gia khởi nghĩa thành công.

Sang đến năm sau, năm 543, quân khởi nghĩa hai lần đánh tan cuộc phản kích của giặc Lương phương Bắc và phá cuộc gây rối của nước láng giềng phương Nam, lão tướng Phạm Đô Tu đều có mặt và lập công đầu.

Đến đầu Xuân năm 544, cách ngày nay vừa đúng 1.470 năm khi Lý Bí lên ngôi Lý Nam Việt Đế, lập nước Vạn Xuân, thì lão tướng Phạm Đô Tu đã thành quan Thái úy, đứng đầu võ ban của triều đình Vạn Xuân.

Sau đấy đến mùa hè đỏ lửa năm 545. Giặc nhà Lương không từ bỏ mộng xâm lăng đô hộ, đã tổ chức một đạo quân lớn, giao cho tướng Trần Bá Tiên chỉ huy, đưa quan thứ sử Dương Phiêu sang tái chiếm và nô dịch nước Việt.

Triều đình Vạn Xuân lập tức bàn định việc kháng chiến. Một trung tâm đương đầu với địch, được quyết định xây dựng ở ngay chỗ sông Tô giao nước với sông Cái-chính là chỗ về sau mang địa danh "Giang Nguyên" (nguồn sông) và bây giờ là địa điểm gặp nhau giữa phố Chợ Gạo và đường Trần Nhật Duật, thuộc quận Hoàn Kiếm, khi chỗ "nguồn sông" này bị lấp vùi vào thời gian cuối thế kỷ 19, để mọc lên ở đó một khu "Chợ Gạo". Nhưng 15 thế kỷ trước đấy thì đây là chỗ được sử cũ gọi là "Tô Lịch giang thành" (Thành sông Tô Lịch).

Trấn giữ tòa thành sông Tô Lịch này, chính là lão tướng Phạm Đô Tu.

Và trận huyết chiến giữa đoàn quân giữ thành của lão tướng Phạm Đô Tu với đạo binh thuyền nhà Lương xâm lược của bọn quan tướng Trần Bá Tiên, Dương Phiêu đã nổ ra ở đây, tối sầm trời đất, đúng vào ngày 20 tháng Bảy (âm lịch) năm 545.

Sử cũ chép rõ: Tô Lịch giang thành là một tòa thành xây đắp cấp tập bằng tre, gỗ. Và giặc thì vừa đông, vừa mạnh. Cho nên chỉ sau một ngày giao chiến, thành sông Tô Lịch đã bị vỡ.

Vị lão tướng giữ thành, chỉ huy trận đánh Tô Lịch giang thành, cùng quân sĩ chiến đấu đến người cuối cùng, đã hy sinh oanh liệt tại trận, ngày hôm đó là 20 tháng Bảy lịch trăng, năm 545.

Vị lão tướng Phạm Đô Tu vậy là đã đi hết cuộc hành trình "từ nôi đến mộ" vẻ vang, trên cùng một dòng sông Tô Lịch, từ quê hương thôn Vực nguồn sông ra tới nơi cửa sông có tòa và trận Tô Lịch giang thành, tất cả đều ở trên vùng đất kinh kỳ-thủ đô nước Việt ngàn đời để thành vị tướng quân liệt sĩ đầu tiên của Hà Nội, ở thời tiền Thăng Long.

Anh linh vị tướng quân liệt sĩ đầu tiên của Hà Nội đến nay vẫn phảng phất nơi quê hương Thanh Liệt-Thanh Trì, để thụ hưởng khói hương sùng kính qua các đời hậu thế ở hai tòa Miếu Vực và Đình Ngoại, với những lời ngợi ca hào sảng, lộng lẫy vàng son nổi lên trên các câu đối:

- Trượng nghĩa cự Lương binh, hách hách tinh trung huyền nhật nguyệt

Phong hầu minh Lý sử, miên miên thang mộc ấm phù du.

(Khởi nghĩa dẹp quân Lương, lẫm liệt tướng tinh ngời nhật nguyệt

Tước danh sáng sử Lý, vẻ vang quê quán mãi non sông).

- Tướng sử Lục triều, Lương định quốc

Thần bi nhất Phạm, Liệt danh hương

(Chống đánh giặc Lương thời lục triều, dũng tướng lừng danh sử chép

Nổi tiếng thần linh người họ Phạm, bia ký Thanh Liệt tôn vinh).

VĂN LANG