Anh Bùi Phùng, Thượng tướng Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, tiếp tôi tại khu A - nhà Con Rồng. Anh cho biết:

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, anh Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật được chỉ định là Phó tư lệnh chiến dịch phụ trách công tác hậu cần, kỹ thuật chiến dịch. Tôi là phó cho anh Thiện. Sáng 26-4-1975, Bộ chỉ huy chiến dịch (gồm các anh Văn Tiến Dũng, Phạm Hùng, Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện, Lê Quang Hòa, Lê Ngọc Hiền, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt...) di chuyển đến Sở chỉ huy tiền phương ở Cam Xe (phía tây Bến Cát). Trước đó, sở chỉ huy tiền phương của hậu cần đã chuyển đến làng 18 (Dầu Tiếng) do tôi và anh Đào Sơn Tây phụ trách. Đến đây, các bộ phận kiểm tra lại toàn bộ công tác chuẩn bị: hậu cần, kỹ thuật, đợi giờ G. (17 giờ 26-4-1974) chiến dịch mở màn.

Lúc này, ở cơ quan tiền phương hậu cần có đủ các đồng chí chỉ huy: Nguyễn Văn Hương (tham mưu, kế hoạch), Nguyễn Văn Hòa (chính trị), Nguyễn Văn Ngọt (quân nhu), Hồ Văn Huê (quân y), Lưu Dương (quân giới), Tống Văn Phải (vận tải)...

Anh Bùi Phùng tâm sự: “Suốt cuộc đời làm hậu cần phục vụ bộ đội, tôi nghiệm ra một điều, sự chuẩn bị bảo đảm bao nhiêu cũng không thể coi là đủ, bởi không ai có thể lường hết được sự phát triển muôn vẻ của chiến tranh, chiến trường, chiến cuộc. Sự chuẩn bị càng cao, càng chu đáo, càng “ăn ngon ngủ yên”.

Lướt qua mấy cuốn sổ nhật ký có ký hiệu A75, anh Bùi Phùng thông tin thêm: Từ sớm, hậu cần chiến dịch được lệnh chuẩn bị 60.000 tấn bao gồm 25.000 tấn lương thực, thực phẩm; 25.000 tấn vũ khí; 8.500 tấn xăng dầu; 15.000 tấn thuốc quân y... bảo đảm cho số quân tham chiến là 5 quân đoàn và khoảng 6 lữ đoàn và các lực lượng khác, chưa kể phải bảo đảm súng đạn cho du kích, dân quân các quân khu đánh phối hợp. Về thời gian, ngày 20-4-1975, cơ bản hoàn thành công tác chuẩn bị.

Ngay sau khi nhận được bức điện ngày 7-4-1975 của anh Văn: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa”, chúng tôi đã thấy tình hình sẽ phát triển như thế nào rồi, vì vậy, đã điều chỉnh và bố trí lại lực lượng nhằm áp sát thành phố Sài Gòn, bảo đảm cho 4 hướng tiến công lớn từ ngoài vào và các đơn vị luồn sâu đánh chiếm bên trong. Hai tuyến vận tải chiến lược từ Tây Nguyên theo đường 14A và 14B tới Bù Gia Mập, Bù Đốp, tới tổng kho Đồng Xoài, và một tuyến nữa theo đường biển, sau đó chuyển bằng đường bộ, theo quốc lộ số 1, từ cảng Đà Nẵng, Cam Ranh và Xuân Lộc, Bà Rịa. Từ hai điểm tập kết lớn đó, Mặt trận tổ chức 6 tuyến vận tải chiến dịch để đưa hàng đến các quân đoàn và các đoàn hậu cần tuyến trước.

Khi Bộ tư lệnh A75 nhận được điện của Bộ Chính trị ngày 18-4-1975: “Thời cơ quân sự, chính trị để mở cuộc tiến công vào Sài Gòn đã chín muồi, cần phát triển trên các hướng, không thể để chậm”, thì hậu cần cũng đã cơ bản hoàn thành công tác chuẩn bị. Các anh Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ... rất hài lòng. Khi anh Văn Tiến Dũng hỏi về tình hình đạn súng lớn, anh Thiện trả lời: “Có thể bắn đến mấy đời!”. Anh Thiện cũng nói với anh em pháo binh: “Các cậu cứ bắn thật mạnh. Bắn cho chúng nó sợ, sợ đến ba đời!”. Suốt mấy năm nay, đạn pháo lớn luôn là nỗi lo thường xuyên của chúng ta ở chiến trường.

Anh Bùi Phùng tâm sự: “Suốt cuộc đời làm hậu cần phục vụ bộ đội, tôi nghiệm ra một điều, sự chuẩn bị bảo đảm bao nhiêu cũng không thể coi là đủ, bởi không ai có thể lường hết được sự phát triển muôn vẻ của chiến tranh, chiến trường, chiến cuộc. Sự chuẩn bị càng cao, càng chu đáo, càng “ăn ngon ngủ yên”.

Trần Hồ