Năm 1923, Trần Huy Liệu 22 tuổi, rời quê hương vào Sài Gòn, bươn chải đủ nghề để kiếm sống, sau đó đi làm báo nhằm góp phần đấu tranh chống Pháp xâm lược, thức tỉnh lòng yêu nước của đồng bào. Ông tham gia làm nhiều báo thời bấy giờ.
Năm 1928, Trần Huy Liệu bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Trong tù, ông được tiếp xúc, giác ngộ lý tưởng cộng sản. Ra tù (năm 1934), ông lập Nhà xuất bản Đông Dương và tham gia viết cho nhiều báo khác. Năm 1936, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, tham gia làm các báo: Tin tức, Đời nay. Những năm 1939-1945, bị thực dân bắt, giam ở các nhà tù Sơn La, Bá Vân, Nghĩa Lộ, với ý chí cách mạng sắt đá, trong hoàn cảnh tù đày, ông cùng các đồng chí làm một số tờ báo bí mật. Đầu năm 1945, ông vượt ngục thành công, được Đảng giao làm Thư ký tòa soạn Báo Cứu Quốc-Cơ quan của Tổng bộ Việt Minh.
Là nhà báo nổi tiếng, Trần Huy Liệu cũng là nhà văn tên tuổi. Năm 1927, ông sáng lập Cường học thư xã, chuyên xuất bản sách cổ vũ tinh thần yêu nước chống thực dân. Ông còn làm nhiều thơ hướng bạn đọc ý thức về bổn phận và trách nhiệm với đất nước, nhân dân. Năm 1977, tập Thơ Trần Huy Liệu tập hợp các sáng tác từ năm 1918 đến 1969, thể hiện rõ tiếng lòng của một nhà thơ chiến sĩ cách mạng sắt son với Đảng, yêu thương đồng chí, đồng bào, có tinh thần lạc quan, thắm thiết tình yêu thiên nhiên.
    |
 |
Bìa cuốn “Hồi ký Trần Huy Liệu”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2020. |
Với tài năng và những đóng góp xuất sắc, ông được cử làm Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền và Cổ động trong Chính phủ lâm thời. Được sống, chứng kiến thời điểm lịch sử trọng đại của dân tộc là may mắn của bất cứ công dân yêu nước nào. Với Trần Huy Liệu, hơn thế, còn là một nhân chứng trực tiếp, một yếu tố quan trọng của sự kiện. Trong Hồi ký Trần Huy Liệu (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2020), ông tự hào cho biết có hai lần được sống trong những giây phút sung sướng nhất. Một là công việc thảo Quân lệnh số 1 phát lệnh Tổng khởi nghĩa toàn quốc, tại Việt Bắc; hai là nhận ấn kiếm thoái vị của Bảo Đại tại Huế.
Nhận được tin phát xít Nhật bại trận, chuẩn bị đầu hàng Đồng minh, ngay lập tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Cơ hội lịch sử đã tới. Giờ phút thiêng liêng đã điểm. Trong hồi ký, Trần Huy Liệu viết: “Đêm 13-8, trong một căn nhà lợp lá, tôi được đồng chí Văn (đồng chí Võ Nguyên Giáp) ủy quyền cho thảo bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa. Mặc dù ngồi dưới ngọn đèn tù mù, những con tầm xuân, con thiêu thân bay quanh tới tấp, muỗi và dĩn thi nhau đốt làm tôi nhiều lúc nảy người lên hay đập chân bành bạch, tôi vẫn say sưa nghĩ đến cảnh nước mất, dân nhục từ hơn tám mươi năm, nghĩ đến sự nghiệp cách mạng của mấy thế kỷ qua...”. Ông kể, bản Quân lệnh số 1 được “thảo một mạch, đọc đi đọc lại vẫn không sửa chữa một chữ nào”. Lời văn ngắn gọn, đanh chắc, hừng hực khí thế, kêu gọi, cổ vũ, thúc giục toàn dân đứng lên: “Dưới mệnh lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, đồng bào hãy đem hết tâm lực ủng hộ đạo Quân giải phóng, sung vào bộ đội, xông ra mặt trận đánh đuổi quân thù”; “Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta”.
Như một ngọn đuốc châm tới hàng triệu ngọn đuốc trên toàn cõi Việt Nam thành một rừng lửa khởi nghĩa thiêu cháy thành lũy phong kiến, để sừng sững mọc lên ngôi nhà dân chủ đầu tiên của Đông Nam Á: Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Diễn ra trong khoảng thời gian nhanh nhất (hơn nửa tháng), trong không gian rộng dài nhất (từ Bắc đến Nam), Cách mạng Tháng Tám là một trong những cuộc cách mạng thành công nhất trong lịch sử thế giới. Không chỉ là một tư liệu lịch sử vô giá, bản Quân lệnh số 1 trở thành tài sản văn hóa của dân tộc, của cách mạng. Ngày 16 và 17-8-1945, Quốc dân Đại hội họp bầu Trần Huy Liệu làm Phó chủ tịch Ủy ban Dân tộc giải phóng (Chủ tịch là Bác Hồ).
Từ Tân Trào, ông trở về Hà Nội. Không chỉ tái hiện trung thực thời điểm lịch sử giải phóng, lời văn hồi ký đi sâu miêu tả tâm trạng sung sướng vô bờ của một công dân tự do: “Xe chúng tôi vào Hà Nội dưới một rừng cờ và biểu ngữ. Ký ức của tôi hôm nay cũng không còn nhớ được hôm ấy vào ngày nào, chỉ áng chừng là ngoài 20-8. Còn cảm tưởng của tôi ra sao? Chỉ nhớ là sung sướng quá đến nỗi ngây ngất cả người”. Theo sự phân công của Trung ương Đảng và Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa, phái đoàn do ông làm Trưởng đoàn cùng với đồng chí Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận được cử vào Huế nhận ấn kiếm thoái vị của Bảo Đại. Ngày 25-8-1945, phái đoàn lên đường. Trên suốt chặng đường dài, biết có phái đoàn đi qua, đồng bào ta đứng ở hai bên đường chào đón rất đông. Điều ấy cũng là lẽ tự nhiên: Lần đầu tiên họ được chứng kiến người của cách mạng về Huế đòi chính quyền nên tất cả đều vui, háo hức. Đúng như lời ông kể: “Tôi tưởng tượng những ngày ấy, nhân dân không còn ai ở nhà mà ra cả đường để đón phái đoàn Chính phủ lâm thời...”.
Khi đoàn cách Huế 12km thì gặp ông Phạm Khắc Hòe, Đổng lý Ngự tiền văn phòng của Bảo Đại ra đón. Qua ông Phạm Khắc Hòe, phái đoàn chuyển yêu cầu tới triều đình:
“1- Sau khi đến điện Kiến Trung gặp Bảo Đại, chúng tôi sẽ nói cho biết ngày làm lễ thoái vị và nghi thức, thủ tục của buổi lễ này.
2- Sau khi làm lễ thoái vị, Bảo Đại sẽ phải ra khỏi hoàng cung, chỉ được đem theo những đồ dùng riêng, còn những tài sản, vật liệu trong hoàng cung sẽ do Ủy ban Hành chính Trung Bộ làm biên bản và bảo quản.
3- Những lăng tẩm của hoàng tộc nhà Nguyễn là công trình của nhân dân xây dựng nên phải là tài sản của Nhà nước. Họ nhà Nguyễn được đến đây cúng bái tổ tiên, nhưng không được nhận làm của riêng”.
Những yêu cầu ấy gián tiếp nêu một sự thật: Triều đình nhà Nguyễn hoàn toàn sụp đổ. Mọi lĩnh vực, từ chính trị đến kinh tế, xã hội... tất cả tuyệt đối đều của dân.
    |
 |
Mô phỏng sự kiện Vua Bảo Đại thoái vị, trao ấn kiếm cho đại diện Chính phủ lâm thời tại Bảo tàng Lịch sử TP Huế. Ảnh chụp lại |
Ngày 30-8-1945 là ngày đặc biệt của lịch sử nước ta: Trước cửa Ngọ Môn, Bảo Đại-vị vua cuối cùng, đọc chiếu thoái vị trước 5 vạn nhân dân. Là vị chủ lễ, có lẽ lời tường thuật của Trần Huy Liệu là một trong những mô tả trung thực, xúc động nhất: “Đọc xong, Bảo Đại giơ hai tay dâng chiếc kiếm dài nạm ngọc và sau đó là chiếc ấn hình vuông. Tôi thay mặt Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa tiếp nhận hai vật tượng trưng cho chế độ”. Giọng kể trung thực pha sự hài hước, ông viết: “Khi tiếp nhận thanh kiếm của Bảo Đại dâng lên thì không có gì đáng kể. Nhưng khi tiếp nhận chiếc ấn vàng, tôi đã phải chịu đựng sức nặng bất ngờ của cái ấn. Chiếc ấn nặng tới 7kg vàng!”. Không ngờ nó nặng thế, nên ông “phải cố gắng vận dụng hết sức bình sinh để chống đỡ”. Nhưng trách nhiệm, nhất là niềm vui đã làm ông quên đi cái nặng, để giơ cao cho đồng bào xem, “càng giơ lên và đưa đi đưa lại thì dân chúng càng hoan hô”. Sau đó, ông thay mặt Chính phủ đọc diễn văn tuyên bố xóa bỏ chính thể quân chủ, chấm dứt ngôi vua cuối cùng của chế độ quân chủ chuyên chế triều Nguyễn. Trao ấn kiếm tức là trao biểu tượng quyền lực, quyền uy của triều đình phong kiến cho cách mạng.
Từ ngày 1-1-1946, ông tiếp tục được tín nhiệm cử làm Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền và Cổ động trong Chính phủ liên hiệp lâm thời, sau đó trải qua nhiều chức vụ khác như: Viện trưởng đầu tiên của Viện Sử học, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam... Ông được Nhà nước phong học hàm Giáo sư, được Viện Hàn lâm Khoa học Cộng hòa dân chủ Đức bầu làm Viện sĩ. Là một nhà khoa học lớn, ông để lại nhiều công trình khoa học nghiên cứu xuất sắc về lịch sử, văn hóa, báo chí, văn học-nghệ thuật... Ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 (năm 1996). Tên ông được đặt cho nhiều đường phố ở các tỉnh, thành phố trên cả nước.
PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ