Ngục tù và ánh sáng niềm tin

Chúng tôi may mắn được đi cùng đoàn cựu tù Côn Đảo về thăm lại “địa ngục trần gian” xưa trong một chương trình về nguồn. Giữa trưa nắng oi nồng ở Côn Đảo, bà Ba Son dẫn chúng tôi đến khu nhà giam từng là buồng kỷ luật số 8, trại Phú Hải-nơi giam giữ bà và đồng đội trong những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong không gian tối tăm, lời kể của bà Bùi Thị Son vang lên như ngọn gió từ ký ức thổi về: “Ở đây, tôi từng nghĩ mình sẽ chết, nhưng nhờ tinh thần đồng đội, niềm tin cách mạng, tôi đã sống tiếp cho những người nằm lại nơi này”.

leftcenterrightdel

Bà Bùi Thị Son (hàng ngồi, áo đen) trò chuyện cùng du khách tại di tích Nhà tù Côn Đảo.

Sinh ra tại Gia Định, bà Son lớn lên trong gia đình giàu truyền thống cách mạng. Gia đình bà là cơ sở nội thành của lực lượng Biệt động Sài Gòn. Hai người anh trai ruột là Bùi Văn Rai và Bùi Văn Tí tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và đã hy sinh trên chiến trường, tên tuổi được khắc trên bia đá đền Bến Dược. Khi còn là nữ sinh Trường nữ trung học Lê Văn Duyệt (nay là Trường THPT Võ Thị Sáu, TP Hồ Chí Minh), Ba Son đã sớm giác ngộ cách mạng, xác định rõ con đường đi của mình bằng tri thức và lý tưởng: “Học để hiểu, học để đấu tranh”.

Năm 1960, khi mới 16 tuổi, bà tốt nghiệp tú tài II, một thành tích hiếm hoi của nữ sinh miền Nam lúc bấy giờ. Bà bí mật tham gia công tác phụ nữ, vận động thanh niên theo cách mạng và tự mình nêu gương sáng. Năm 1963, Ba Son trở thành chiến sĩ trinh sát quân báo, chuyên theo dõi, vẽ sơ đồ đồn bốt Mỹ-ngụy cho lực lượng biệt động tấn công.

Cuối năm 1968, bà bị địch bắt trong một trận càn và bị đày ra biệt giam ở Côn Đảo. Những năm tháng bị giam trong “chuồng cọp”, nơi giam giữ đặc biệt khắc nghiệt của hệ thống nhà tù thực dân, với bà và những đồng đội kiên trung là quãng thời gian vô cùng nghiệt ngã nhưng lại rực sáng niềm tin, lý tưởng. Bị giam trong căn hầm đá ẩm thấp, bị tra tấn bằng đủ loại cực hình, từ rải vôi bột, chọc sào nhọn cho đến bỏ đói triền miên... kẻ thù vẫn không làm nhụt chí những người chiến sĩ cách mạng kiên trung.

Chính ở nơi “địa ngục trần gian”, bà và đồng đội đã sáng tạo nên “lớp học nấu ăn” vô cùng độc đáo. Không có nguyên liệu, không lửa, không soong, nồi, họ truyền nhau qua tiếng vọng về cách làm món bánh ú, gà rút xương, vịt tiềm... Cách dạy bằng trí nhớ, bằng lời kể, bằng mùi vị của trí tưởng tượng. Những bài học ấy khiến lính gác tức tối. Chúng thường xuyên giậm chân quát tháo, khua dùi cui vào song sắt và thọc đầu nhọn của cây gậy xuống bắt các nữ tù phải “câm mồm”.

“Ở đây là Côn Đảo, là “chuồng cọp”. Chỉ có các bà ở đây rục xương chứ làm gì có gà rút xương hay vịt tiềm!”. Khi chúng gầm lên như vậy, các nữ chiến sĩ đã đáp lại bằng những lời dõng dạc: “Chúng tôi học để khi đất nước hòa bình, chúng tôi trở về nấu ăn cho gia đình, người thân chúng tôi thưởng thức!”. Đó không chỉ là câu trả lời mà còn là lời tuyên ngôn về niềm tin bất diệt vào ngày chiến thắng. Những món ăn mà họ học được không chỉ là công thức nấu nướng mà còn là biểu tượng cho khát vọng sống, khát vọng được trở về. Dùi cui, roi điện không thể dập tắt được tinh thần lạc quan, niềm tin sắt đá vào ngày chiến thắng của những chiến sĩ bị tù đày.

Sau khi tội ác mang tên “chuồng cọp” bị dư luận quốc tế phanh phui, Ba Son được chuyển qua các trại Phú Tường, Phú An, Phú Hải... Mỗi nơi, bà lại tham gia tổ chức các lớp học trong tù. Không bảng đen, không giấy bút, họ tận dụng bìa cứng làm vở, bọc vải đen, bôi glycerine (một loại thuốc nhuận tràng có dầu) rồi dùng vật nhọn viết chữ hiện lên qua lớp ni lông. Từ những kiến thức được tích lũy của một học sinh giỏi, bà Son dạy văn hóa, truyền đạt lại kiến thức cho chị em tù nhân. “Chị em tù thường nói với nhau, chúng ta học trong bóng tối, mỗi con chữ là ánh sáng. Chúng ta không có sách vở, không có phấn bảng, nhưng chúng ta có nhau”, bà Son nhớ lại.

Có người dạy nhau may vá, nấu ăn. Có người lại say mê với những bài toán, vần thơ. Câu chuyện về những “học trò” của bà vẫn còn in đậm trong ký ức. Đó là “chị học trò” ngây thơ thắc mắc, vì sao chữ “cẳng” có “g” mà chữ “chân” lại không? Hay trong buổi học động từ và tính từ, vì lời dạy “cái gì động đậy, di chuyển thì là động từ; cái gì đứng yên thì là tính từ” mà dẫn tới việc có chị trong phòng giam đã bảo “ngủ” là tính từ vì căn cứ vào việc con người không di chuyển khi ngủ. Những sự hồn nhiên, lạc quan ấy là minh chứng cho tinh thần bất khuất, luôn tràn đầy ánh sáng niềm tin...

Tình yêu hóa hành động

Giải phóng Côn Đảo, bà Ba Son trở về đất liền. Quê hương, đất nước bước sang trang mới và bà cũng bắt đầu một hành trình mới, hành trình của những người đi xây dựng, kiến thiết đất nước từ hậu quả chiến tranh. TP Sài Gòn-Gia Định năm xưa, rồi sau này là TP Hồ Chí Minh vẫn là mảnh đất nuôi dưỡng lý tưởng, là nơi neo giữ tâm hồn bà.

leftcenterrightdel
Bà Bùi Thị Son (thứ hai, từ phải sang) cùng các đồng đội về thăm Côn Đảo (tháng 5-2025). Ảnh: PHƯƠNG NGÂN

Sau năm 1975, bà Bùi Thị Son công tác tại Ban Tuyên giáo Thành ủy TP Hồ Chí Minh, rồi chuyển về Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố, trực tiếp phụ trách công tác truyền thông, giáo dục chính trị, tư tưởng. Là một cán bộ từng trải trong tù, bà đặc biệt chú trọng việc bồi dưỡng phẩm chất, tinh thần vượt khó và niềm tin, lý tưởng cho thế hệ phụ nữ trẻ thành phố. “Giáo dục tư tưởng cho phụ nữ không phải là lý thuyết khô khan mà là truyền đi ngọn lửa từ đời sống”, bà nói.

Hơn 20 năm công tác, dù ở cương vị nào, bà vẫn không quên mình là một chiến sĩ. Bà tham gia kể chuyện truyền thống ở các trường đại học, nói chuyện thời sự tại các tổ chức cơ sở đảng, viết bài cho nhiều tờ báo về chủ quyền, về đạo đức công vụ, về người trẻ sống đẹp giữa thời hội nhập... Bà đồng hành với các phong trào thi đua của phụ nữ thành phố. Các tuyến đường của TP Hồ Chí Minh đều in dấu chân bà, từ những khu dân cư ở Thủ Đức, những buổi giao lưu ở Nhà văn hóa phụ nữ thành phố đến những lần trở về Côn Đảo cùng đoàn đại biểu thành phố tri ân đồng đội đã khuất.

Bà là cầu nối giữa thế hệ kháng chiến và thế hệ hôm nay, là một trong những thành viên sáng lập Câu lạc bộ Truyền thống kháng chiến TP Thủ Đức. Ở đó, bà không chỉ là nhân chứng sống mà còn là người “giữ lửa” cho các hoạt động uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa. “Có những sinh viên hỏi tôi: “Sao bà lại lạc quan đến thế?”. Tôi trả lời: Vì tôi tin vào thành phố này, nơi đã cưu mang chúng tôi và nơi chúng tôi đã hiến dâng cả tuổi xuân”.

Trong mắt bà Son, TP Hồ Chí Minh không chỉ là quê hương mà còn là “người bạn lớn” đã bao dung cả những vết thương chiến tranh lẫn ước vọng vươn lên. Thành phố hôm nay hiện đại, náo nhiệt, nhưng với bà, vẫn là nơi thiêng liêng bởi có những ngôi mộ liệt sĩ chưa xác định được danh tính, có những ký ức không thể quên, có những đồng đội không thể trở về...

“Nhiều người ra đi mãi mãi không kịp thấy Sài Gòn giải phóng. Tôi may mắn hơn họ nên phải sống sao cho xứng đáng với điều đó”, bà nói, đôi mắt rưng rưng.

Từ nơi “địa ngục trần gian” năm xưa đến TP Hồ Chí Minh năng động hôm nay, bà Bùi Thị Son đã sống trọn một cuộc đời gắn với lý tưởng cách mạng, với tinh thần học tập không ngừng và tình yêu sâu đậm.

Tháng 7 về, lại đến những ngày toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thành kính, thành tâm tri ân các anh hùng liệt sĩ, người có công với cách mạng. Lắng nghe câu chuyện của bà Son và đồng đội một thời vào sinh ra tử, chúng tôi cảm nhận đó không chỉ là dòng ký ức mà còn là lời nhắc nhở thầm lặng, thiêng liêng: Đừng để ánh sáng niềm tin trong mỗi con người tắt đi, dù trong bóng tối thẳm sâu hay trong những hoàn cảnh khó khăn nhất của cuộc đời...

THÁI PHƯƠNG - BẢO NGÂN