Tây Nguyên ơi, ai một lần qua đó

Suốt một đời nghĩ lại vẫn thương nhau

Nói đến Chiến dịch Tây Nguyên 1975, người ta thường nói tới trận mở đầu Buôn Ma Thuột, nhưng theo tôi, trước hết phải nói tới những gì đã xảy ra trên cao nguyên này từ nhiều năm trước; phải nói tới những năm tháng bám trụ chống trả với bom đạn, đói rét, bệnh tật của nhân dân và chiến sĩ nơi chiến trường này và nói về cái nhìn đúng đắn, xa rộng của Đảng ta khi đánh giá địa bàn chiến lược Tây Nguyên, để rồi từ Tây Nguyên, chúng ta bắt đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.

Nhớ lại những năm 1968-1969, khi mà tổng lương thực dự trữ cho cả chiến trường gần như đã cạn kiệt, địch lại phản kích, tìm diệt, “xúc tát gom dân”, rải bom B-52, chất độc hóa học, tung biệt kích, thám báo... rất ráo riết, khi mà Lầu Năm Góc tuyên bố “Việt Cộng đã hết hơi” thì đồng bào các dân tộc ở khắp buôn làng Tây Nguyên đã chung tay cưu mang, che chở bộ đội ta một cách vô tư, đầy cảm kích. Rất nhiều câu chuyện cảm động về tình quân dân lúc bấy giờ, cho đến nay, những người lính Tây Nguyên vẫn không sao quên được. Những người lính năm xưa hoạt động trên chiến trường này rất tự hào vì đã một thời được làm người chiến sĩ Tây Nguyên, được vinh dự là “Bộ đội B3”.

leftcenterrightdel
Tượng đài chiến thắng Buôn Ma Thuột. Ảnh: NGÔ VĨNH

Rồi đây, những Plei Me, Sa Thầy, Mang Yang, An Khê, Đắc Tô-Tân Cảnh, Buôn Ma Thuột, Đường 7, đèo Phượng Hoàng... sẽ đổi thay, những “cổng trời”, “bãi C1”, “dốc trăm bậc”, “cây đa gió lộng”, “cầu Lầy” và cả bài ca “cây sắn tiến công” sẽ đi vào dĩ vãng. Song, với những chiến sĩ Tây Nguyên năm xưa thì dù ở cương vị công tác nào và đang ở đâu, những năm tháng ấy vẫn gần gũi biết bao.

Tôi có may mắn được “ngồi” với Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp nhiều buổi khi ông còn đương chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Được diện kiến tướng quân nhiều hơn là những ngày cùng Đại tá Lê Hải Triều thực hiện tập hồi ký “Ký ức Tây Nguyên” của ông. Cái tôi ghi được, giữ được, cảm nhận được đầy ấn tượng không phải chỉ là những trận đánh, những vấn đề thuộc lĩnh vực nghệ thuật quân sự mà là những năm tháng đi liền với những trận đói, những cái Tết... đói!

Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp đưa cho tôi đọc cả thảy 21 tập ghi chép viết trong những năm cuối 60, đầu 70 của thế kỷ trước. Tôi đọc thấy không có tập nào là không nói về cái đói trên địa bàn Tây Nguyên. Cuốn ghi năm 1969 viết: “Chiến sĩ B3 được cấp phát trong năm gồm 1 bàn chải đánh răng, 250g xà phòng, 700g thuốc lá...”. Cuốn ghi năm 1970 có thêm: Mỗi tháng “2 lạng mỡ, 2 lạng mắm kem, 1 cân muối, 12 cân gạo (ai đi trận thì được 0,5 cân đường, 1 hộp sữa, nửa cân đậu xanh, 5 lạng gạo hấp/ngày)... Và ông kể, với người lính Tây Nguyên, mỗi khi nhớ về những năm tháng chưa xa ấy, có lẽ câu chuyện ám ảnh nhất, ấn tượng nhất, khó quên nhất là câu chuyện về cái đói, sự chiến thắng cái đói, sau đó mới là chuyện đánh giặc. Ông nhớ lại: “... Năm 1966, đến 29 tháng Chạp, ở cơ quan chính trị mặt trận chỉ còn vài chục lon gạo sắn, thực phẩm không còn gì. Anh em bàn nhau và quyết nghị: Ngày 30 Tết chỉ một mình chủ nhiệm trực ở nhà giải quyết công việc, còn hơn hai chục cán bộ, chiến sĩ phân công nhau đi kiếm ăn, đào củ rừng, hái rau, săn bắn... lo Tết. Cái đói dịp cuối năm, áp Tết sau này được đưa vào thơ văn. Cái ống coóng của bộ đội-một cái ống bơ (vỏ đồ hộp) để đun nấu, cải thiện mà dường như người lính Tây Nguyên nào cũng biết, cũng có. Lính ta đi đâu cũng mang nó theo để hễ gặp bất cứ thứ gì ăn được là bỏ vào, đun lên thành cái ăn. Đó là một nồi “thắng cố”, một nồi lẩu thập cẩm hổ lốn đủ thứ: Cua, cá, tôm tép, chim, chuột, rau, củ... tất tật. Cái ống coóng đã được nhà thơ Thanh Thảo cảm hứng làm ra “Bài ca ống coóng”-một bài thơ đặc sắc mà nhiều chiến sĩ Tây Nguyên đến nay còn nhớ:

      Những tráng ca thuở trước

      Còn hát trong sách thôi

      Những thanh gươm yên ngựa

      Giờ đã cũ mèm rồi

      Bài ca của chúng tôi

      Là lời ca ống coóng

      Hành trang Quân Giải phóng

      Đơn giản nhất trên đời!

      ...

      Tháng năm sẽ dần phai

      Bao bài ca duyên dáng

      Nhưng tôi biết giờ đây

      Như khắc vào đá tảng

      Như vạch vào thân cây

      Bài ca của hôm nay

      Thô sơ và rực sáng

      Mang lẽ đời đơn giản

      Nói được đến ngày mai...

Nhà thơ viết về cái đói ngoài mặt trận như vậy, còn Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp thì nhớ mãi những cái Tết không thể nào quên thời chiến tranh. Ông kể, có một năm, quãng 29, 30 Tết gì đó, các đồng chí lãnh đạo tỉnh Kon Tum đến chúc Tết Bộ tư lệnh mặt trận. Đang thời kỳ thiếu đói, khách đến thật khó nghĩ. Dường như thấu hiểu hoàn cảnh của bộ đội, lãnh đạo địa phương đã mang đến một chú heo con nặng chừng... gần chục ki-lô-gam để các đồng chí trong Bộ tư lệnh mặt trận “bồi dưỡng”! Thật là, “ta nghèo, khách đến thăm ta cũng nghèo”... Tối hôm đó, lãnh đạo, chỉ huy mặt trận lệnh: Mổ heo nấu cháo, chỉ có cách đó, toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong cơ quan mới có một bữa “tươi” đón Giao thừa, năm mới. Vị tướng trận mạc bảo: “Đời tôi đã từng có những cái Tết nghèo nơi quê nhà, cũng đã từng ăn những cái Tết đầy đủ, cao sang ở xứ người, nhưng cái Tết ngon nhất, đáng nhớ nhất là cái Tết chiến trường năm ấy. Mỗi lần nhớ về cái Tết ấy, tôi lại thấm thía câu thơ của Nguyễn Trãi thuở nào: Tướng sĩ một lòng phụ tử/ Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào!”.

Để có được ngày 30-4-1975, quân và dân ta đã phải đổ biết bao xương máu. Biết bao người con ưu tú của dân tộc đã ngã xuống để chúng ta có được hôm nay, trong đó có nhiều người, rất nhiều người còn quá trẻ, không ít người hy sinh ngay “trước buổi bình minh”, trước giờ chiến thắng. Những chiến sĩ Tây Nguyên có may mắn được sống đến ngày hôm nay và tất cả những ai có dịp lên Tây Nguyên xin hãy dừng một phút và lặng im một phút trước “nhà tưởng niệm” chín nghìn chín trăm liệt sĩ tiêu biểu cho hàng chục nghìn liệt sĩ Quân đoàn 3 đã hy sinh trong cuộc chiến giải phóng Tây Nguyên, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cuộc đời ngắn ngủi của hàng chục nghìn con người ấy dẫu chỉ là một mảnh nhỏ, một góc hẹp, một giọt nước mong manh, nhưng qua đó cũng có thể hiển hiện sâu thẳm cả cuộc chiến tranh anh hùng mà dân tộc đã đi qua, vượt qua để đến được hôm nay.

Thập Tam trại, sau Tết Tân Sửu 2021

NGÔ VĨNH BÌNH