Một tổ chúng tôi được chỉ định luồn lách xuống đồng bằng lấy gạo. Chúng tôi đi ban ngày để tạo thế bất ngờ. Tuy vậy, hướng Quảng Trị không thể nào qua nổi. Vòng qua Thừa Thiên tới khu Ba Nhà, vừa vượt sông Ô Lâu vài chục mét, trước mặt là một bãi trống thì nghe tiếng rít của trực thăng. Anh em tôi biết rõ bọn này, cùng ngoắt nhau vọt nhanh lên đồi cây lúp xúp. Địch đã phát hiện lực lượng đơn vị bạn phía sau, cũng đi lấy gạo. Hơn 20 chiếc cả “Rọ”, cả “Gáo” rền rĩ khạc lửa. Đạn và rốc két nổ đinh tai. Khói lửa đặc quánh. Phút chốc vạt rừng trước mắt tôi thành chảo lửa. Không biết rõ lực lượng ta, chừng vài chục phút sau chúng biến. Sẽ đến lượt bọn pháo binh khạc đạn hủy diệt. Nắm được quy luật, anh em tôi vọt nhanh trở lại vì biết đường đã bị lộ. Trước mắt tôi, một đồng đội ngồi thẳng người trên gốc cây cụt. Lá ngụy trang lòa xòa. Sau lưng anh là chiếc xoong nhỏ úp ngoài cái gùi rỗng. Tôi tính gọi giật nhưng bất chợt thấy đầu anh chỉ còn một nửa...
Lòng quặn đau. Về đơn vị, tôi báo cáo với Đại đội trưởng Điền. Chúng tôi đã không hoàn thành nhiệm vụ. Ông không nói gì. Mặt ông đanh lại. Sau cùng ông giục chúng tôi đi ăn cơm. Nắm cơm tiêu chuẩn cả ngày bằng quả trứng sáng nay tôi đã nhận. Bụng đói cồn cào, chân run lẩy bẩy, tôi lần bước xuống chỗ cậu La-anh nuôi quê Bình Lục, Hà Nam. La bảo: Đại đội trưởng dặn vẫn chừa phần cơm tổ đi lấy gạo. Nhưng còn ai kia? Chợt thấy hai cô gái ở đấy gật đầu chào. Tôi nhận ra họ trong số chiến sĩ quê huyện Hải Lăng mới tuyển dịp Tết Mậu Thân 3 tháng trước đó. Nhìn dáng vẻ tiều tụy của Hồng và Huế (tên hai cô gái), tôi biết họ đang rất đói. Tôi bước lại gần La làm ký hiệu. Cậu ta hiểu ý gật đầu bảo nhỏ: “Rồi! Em đã dành phần cho hai cô quân y rồi”.
    |
 |
Cựu chiến binh Phạm Hồng Thịnh kể chuyện chiến đấu cho con cháu. Ảnh: THÁI BÌNH |
Nhân tiện tôi mang cả “quả trứng” về cho đại đội trưởng và kể về hai cô quân y đi lấy gạo về không, ghé thăm đơn vị. Nghe xong ông bảo tôi cầm ngay nắm cơm xuống cho hai cô. “Nhưng đây là tiêu chuẩn…” -Tôi ngập ngừng-“Từ trưa qua đến giờ thủ trưởng chưa…”. Ông trừng mắt: “Cậu hãy làm theo tôi bảo”.
Tôi chỉ còn bước thấp bước cao làm theo lệnh của ông.
Hôm sau, tổ chúng tôi nhận lệnh tiếp tục thực thi nhiệm vụ. Trước khi đi, thay cho Chính trị viên Đào Ngọc Liễn đã hy sinh, đại đội trưởng dặn dò: “Nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Cả đại đội nín thở trông vào các cậu. Phải bám chặt đạo lộ, quấn lấy bọn địch, lấy bằng được gạo về cứu bộ đội”.
... “Ngã ba Cưa” đây rồi, không biết cậu nào khéo đặt tên. Đây là nơi tập kết của tất cả các lực lượng trên rừng xuống, đồng bằng lên. Có giao liên, có quân-dân-chính-đảng. Nơi sơ cứu cấp tốc thương binh. Đây là nơi gặp gỡ tâm tình và cả cho nam nữ cưa cẩm nhau-lính trẻ mà. Nơi đây thực sự là trái tim rộn nhịp đập với những mạch máu giao thông không ngừng nghỉ của hai huyện Hải Lăng, Triệu Phong và thành Quảng Trị hồi bấy giờ. Vừa loay hoay tìm một gốc cây nghỉ tạm phòng tránh pháo, bất chợt một vòng tay ôm lấy vai tôi từ phía sau và tiếng kêu mừng rỡ:
- Thịnh!
- Trời ơi! Thạo phải không? - Tôi ngỡ ngàng.
Thạo toét miệng cười. Anh em tôi xa nhau khoảng nửa năm nay, từ khi còn ở B43, K4.
- Mày sao thế? Sốt rét à? -Anh nắm chặt cả hai tay tôi.
- Không - Tôi lắc đầu.
- Mày ốm quá. Tao đến không nhận ra nữa!-Anh lại lắc lắc tay tôi.
- Bọn tao đói lắm, chẳng còn gì ăn cả-Tôi khó nhọc trả lời.
- Trời ơi!-Anh kêu lên-Trông mày không bằng ông già bảy mươi nữa, chỉ còn cái miệng là nhận được. Bây giờ vào chỗ tao, vào tao ăn cơm.
Nhưng khi biết ở đó có nữ giao liên, liếc nhìn bộ quần áo lấm lem và bộ dạng mình giống như “ông lão 70”, tôi nhất định không vào. Chừng như hiểu ra điều gì, Thạo dừng lại:
- Thôi được. Mày đợi tao ở đây. Tao ra ngay bây giờ.
Rồi anh chạy về. Còn tôi mệt mỏi ngồi bệt xuống đất thở dốc.
Chỉ lát sau Thạo xuất hiện. Cha mẹ ơi, trên tay anh là một bát B-52 màu vàng có vành đỏ đầy ú ụ cơm gạo “Bọc thép”. Khói bốc nghi ngút từ thứ nước sốt ruốc tôm nấu với lạc giã nhỏ. Anh ấn bát cơm vào tay tôi, miệng liên tục giục tôi ăn.
Tôi không nói không rằng, hai tay đỡ bát cơm trên tay anh mà nước mắt ứa ra. Tôi chẳng còn biết trời đất ở đâu nữa. Chỉ biết rằng suốt 3 tháng nay, những cái miệng đói ăn tục uống của cánh lính 18-19 chúng tôi chỉ mỗi người một nắm con cơm, ngót quả trứng để cầm cự cho khỏi chết đói suốt ngày suốt đêm lăn lộn chặn địch càn. Tôi không kịp nhai và cũng không kịp nghĩ nữa. Chỉ một loáng tôi đã “đánh” gọn. Mồ hôi nhớt túa ra khắp người tôi tựa hồ như nhớt của con cá chình-loại cá đôi khi chúng tôi đánh được dưới suối.
Lúc bấy giờ anh em tôi mới có thông tin ngắn gọn về nhau. Thạo bảo anh được biên chế về đạo lộ ít ngày nay. Đạo lộ là tên chúng tôi quen gọi anh em trinh sát dẫn đường chỉ một tuyến, một khu vực nhất định đang tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch. Chiến sĩ đạo lộ không bao giờ được nổ súng trước trừ trường hợp bị lộ, thành ra chỉ toàn chịu trận chứ không được và không thể tấn công địch. Họ nhận hy sinh, thu hút địch về mình để bảo tồn lực lượng khác lớn hơn, quan trọng hơn, thành thử quân số cứ hao dần. Mỗi tháng anh em hy sinh một trung đội. Cứ sau 20 ngày đến một tháng phải bổ sung trung đội khác (cỡ 30 người). Anh bảo từ tháng Giêng đến nay, mỗi đêm trung đội lại có một, hai đồng đội ngã xuống. Bởi cả ta và địch đều biết quá rõ hoàn cảnh nhau. Có khác là: Ta buộc phải bước qua chảo lửa, còn bọn chúng chỉ việc nằm phục chờ sẵn…
Không thể ngồi với nhau lâu hơn, anh em tôi nắm chặt tay nhau. Tôi nghẹn ngào nhìn vào mắt anh như muốn in trọn hình hài người đồng đội vào sâu trong tim mình mà linh tính mách bảo chẳng bao giờ còn gặp lại được nhau. Còn Thạo vỗ vỗ vai tôi cười xòa nhắc nhở:
- Nhớ cẩn thận giữ gìn sức khỏe.
Tôi nghiến chặt răng để khỏi bật ra tiếng khóc. Tôi hôn vào cổ anh, ngửi ngửi mùi mồ hôi đã khô cứng chỗ quai súng lằn vào trên vai anh. Chẳng thể nào biết là mùi gì. Nó y hệt mùi chăn ấm của bà nội tôi mà thuở bé hai chị em tôi được ngủ với bà trong những đêm đông giá lạnh và đói khát, khi mẹ tôi sớm qua đời lúc tôi chưa đầy 2 tuổi.
… Sau này đồng đội anh Thạo kể lại: Lệnh trên báo về bằng mọi giá không được để thương binh chết đói. Nhận lệnh, anh Thạo xin được một mình dẫn tiểu đội đi theo bằng một ngã rẽ khác. Với kế nghi binh lừa địch, anh đưa cả tổ vượt qua hàng loạt bãi mìn và ổ địch phục. Song loạt pháo bầy 203mm đã không buông tha các anh. Cả tốp 8 người đều ngã xuống khi vừa về tới giáp ranh Hải Hòa-nơi có hàng dương xanh rì vốn đã thấm đẫm máu đồng đội-mang theo 8 gùi gạo mà các anh liều chết đưa về từ bãi cát Hải Quế do lực lượng bí mật chôn giữ-niềm hy vọng của hàng trăm thương binh đang khắc khoải mong chờ...
Năm mươi năm đã qua rồi, kể từ những ngày không thể nào lãng quên năm ấy, trong lòng tôi vẫn day dứt vết thương về đồng đội. Cả lúc họ ngã xuống khi ôm súng băng qua hàng rào, bãi mìn xông vào căn cứ địch; cả anh chiến sĩ tôi không biết tên bị trực thăng bắn cụt nửa đầu trên đường đi lấy gạo; cả những chiến sĩ trẻ phù thũng ngã xuống bởi ăn phải lá dại; cả người bạn thân thiết của tôi-chiến sĩ đạo lộ đã trao cho tôi bát cơm đẫm nước mắt ở “Ngã ba Cưa” năm nào mà đến nay tôi vẫn chưa tìm được thân nhân. Tất cả các anh-những anh hùng trong tâm khảm đời tôi!
PHẠM HỒNG THỊNH (Nguyên Trung đội bậc phó, Trung đội 2, Đại đội 13, Trung đoàn 812 )