Năm ấy, tôi là một cán bộ của Văn phòng Tổng Chính ủy do đồng chí Nguyễn Cơ Thạch làm Chánh Văn phòng. Thời đó, Văn phòng Tổng Chính ủy được coi là một cơ quan tham mưu chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tôi được tham gia Chiến dịch Biên giới với chức trách là phái viên của văn phòng, đồng thời cũng là cán bộ giúp việc Đại tướng Võ Nguyên Giáp về mặt quân sự. Trong chiến dịch, tôi được giao hai nhiệm vụ. Một là, cùng các đồng chí cán bộ tham mưu của Bộ chỉ huy chiến dịch theo dõi, nghiên cứu tình hình tác chiến để làm báo cáo tổng hợp lên Bộ chỉ huy chiến dịch và giúp truyền đạt những mệnh lệnh, chỉ thị của Bộ chỉ huy chiến dịch cho các đơn vị không sai sót. Hai là, cùng một số đồng chí bảo vệ của Bác bảo đảm an toàn tuyệt đối cho cuộc hành quân của Bác từ Thái Nguyên lên Cao Bằng và tiếp tục phục vụ Bác trong những lần Bác đi xuống thăm các đơn vị đang tác chiến; cũng như khi Bác đến nói chuyện với các sĩ quan Pháp bị bắt làm tù binh ở khu vực phụ cận Thất Khê.
Hằng ngày, chúng tôi theo dõi tình hình, ghi rõ các đơn vị địch, thời gian, địa điểm, hoạt động của chúng và kết quả chiến đấu ở những khu vực đó. Từ đây, chuẩn bị báo cáo tổng hợp để trình bày với Bộ chỉ huy chiến dịch trong các buổi giao ban. Tiếp đó, giúp đỡ việc chuyển các mệnh lệnh, chỉ thị của Bộ chỉ huy chiến dịch tới các chỉ huy của những đơn vị tham chiến.
    |
 |
Đại tá Nguyễn Bội Giong. Ảnh: Tuấn Tú |
Công việc của chúng tôi phải tiến hành suốt ngày đêm, do tình hình tác chiến rất khẩn trương và có những biến đổi bất ngờ mà chúng ta cũng không dự kiến được. Ví dụ như khi Charton-tư lệnh đặc khu Cao Bằng cho quân rút khỏi Cao Bằng về hướng Đông Khê từ ngày 1-10-1950, đồng chí chỉ huy trinh sát của Cao Bằng không thể báo cáo kịp thời tin tức này về cơ quan tham mưu chiến dịch vì không có phương tiện vô tuyến nên phải nhờ cơ quan bưu điện dân sự chuyển giúp. Kết quả là, đến ngày 5-10, bộ phận trinh sát của Trung đoàn 36 bố trí ở phía Tây khu Cốc Xá bất ngờ chạm địch và nổ súng. Lúc đó, cơ quan tham mưu chiến dịch mới biết và lập tức chỉ đạo các đơn vị thuộc một trung đoàn chủ lực của chiến dịch bám đánh, không cho chúng hội quân được với binh đoàn Tabo của Le Page ở Lạng Sơn đang tiến lên ứng cứu...
Mỗi tình huống diễn biến bất ngờ và phức tạp như trên đều làm cho cơ quan tham mưu chiến dịch gặp rất nhiều khó khăn khi nắm lại các lực lượng chiến đấu, tình hình địch trong khu vực. Điều đó đã rèn cho chúng tôi về kinh nghiệm làm công tác tham mưu trong một chiến dịch đánh vận động lớn đầu tiên của Quân đội ta.
Về nhiệm vụ bảo vệ an toàn tuyệt đối cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ có một số anh em chúng tôi trong đoàn bảo vệ được biết ý định của Bác. Mỗi khi Bác cần đi xuống đơn vị, khu vực nào để tìm hiểu, công việc chuẩn bị đều phải được tiến hành rất bí mật và thật trọn vẹn. Cũng có lúc chúng tôi không dám nhờ đến sự giúp đỡ của đơn vị đang tác chiến. Khi đó, Bác đã hơn 60 tuổi. Từ Thái Nguyên lên Cao Bằng, Bác ở lại Sở chỉ huy chiến dịch một buổi tối rồi đến ngay một số khu vực khác để cùng các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy chiến dịch và lãnh đạo địa phương xem xét tình hình, có những quyết tâm rất kịp thời, thống nhất với Bộ chỉ huy chiến dịch để chỉ đạo tác chiến.
Được bảo vệ Bác trong những ngày lịch sử ấy, tôi xin kể những kỷ niệm mà mình trực tiếp chứng kiến. Buổi đầu tiên được tháp tùng Bác, chúng tôi phải lội qua một con suối. Ngay khi tôi vừa xắn quần qua gối, Bác nhìn sang và trìu mến nhắc tôi bước cẩn thận, động viên tôi khắc phục khó khăn vì làm phái viên quân sự “hay phải chạy”. Tôi phỏng đoán khả năng trước khi được chọn, cấp trên đã báo cáo lý lịch cá nhân của từng người chúng tôi, nên không cần hỏi Cụ đã biết chân tôi từng bị thương nặng hồi là học viên Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn tham gia đánh Pháp tấn công lên căn cứ địa Việt Bắc cuối năm 1947. Giữa lúc có bao việc phải lo mà Người lại nhớ và quan tâm đến cả người lính bình thường khiến tôi không sao kìm được xúc động. Càng yêu kính Người bao nhiêu, chúng tôi càng quyết tâm thực hiện nhiệm vụ bấy nhiêu.
Đến giờ, tôi vẫn nhớ như in tình hình lúc Bác đến vị trí quan sát ở Đông Khê: Người trèo lên vị trí quan sát đã được chuẩn bị trước để có thể nhìn rõ được cứ điểm này. Chúng tôi rất lo lắng không được an toàn, nhưng Bác nói: “Các đồng chí yên tâm, Bác từ Thái Nguyên lên đây còn đi được ngỡ là trèo lên một đoạn cao để có thể nhìn thấy cứ điểm Đông Khê”.
Vị trí quan sát lúc đó của Bác ở trên cao chừng 10m, đứng trực tiếp gần Bác là đồng chí Dũng Mã, cán bộ trung đoàn thuộc Văn phòng Tổng Chính ủy vừa được điều xuống đơn vị chiến đấu, mang theo ống nhòm cho Bác dùng. Còn tôi và hai đồng chí bảo vệ khác phải đứng ở dưới vì vị trí quan sát đó hơi chật, cốt sao bảo đảm cho Bác được an toàn và thoải mái. Khi nhìn rõ lá cờ tam tài của địch ở vị trí Đông Khê, Bác nói: “Các chú phải hạ lá cờ đó xuống!”. Ngay lúc ấy, đồng chí Vũ Năng An-nhiếp ảnh riêng của Bộ Tổng Tư lệnh đã chụp bức ảnh nổi tiếng Bác Hồ trên đài quan sát của Chiến dịch Đông Khê.
Khi chiến dịch kết thúc thắng lợi hoàn toàn, Bác muốn đến trại tù binh nói chuyện với một số sĩ quan cao cấp của Pháp đang bị giam ở khu vực phụ cận với Thất Khê. Việc giam giữ tù binh Pháp ở khu vực này có mục đích bảo đảm cho việc trao trả một số tù binh và thương binh Pháp cần điều trị gấp mà ta không có điều kiện cứu chữa được. Bộ Tổng Tư lệnh đã đồng ý với Hồng thập tự quốc tế cho phép một giáo sư, bác sĩ người Pháp là Huyred cùng một số nhân viên y tế đến tiếp nhận những thương binh này ở sân bay Thất Khê.
Hôm ấy, sau khi gặp tù binh, Bác đến gặp nói chuyện với Charton-đã bị bắt cùng cơ quan tham mưu của y ở Bản Ca, chiều 7-10. Tôi cùng hai cán bộ địch vận của Bộ chỉ huy chiến dịch đi theo Bác tới chỗ giam Charton. Đến nơi, Bác không cho ai cùng đi theo vào phòng giam. Chúng tôi rất lo không an toàn cho Bác, nhưng ông Phan Phác-Tham mưu phó chiến dịch nói: “Các đồng chí yên tâm, tôi sẽ bảo đảm tuyệt đối an toàn để Bác có thể thong thả nói chuyện với Charton”.
Chừng 30 phút sau, Bác quay ra và bảo: “Chú nào thạo tiếng Pháp cho vào nói chuyện với Charton”. Tôi và một đồng chí cán bộ địch vận liền vào ngay. Thấy Charton đang ngồi, đầu hơi cúi xuống, thái độ rất buồn và suy nghĩ gì lâu lắm. Ông Phan Phác vừa chỉ hắn vừa nói với chúng tôi: “Từ lúc Bác nói chuyện xong, hắn buồn lắm và ngồi im không nói gì”. Khi chúng tôi nói với Charton bằng tiếng Pháp, đại ý là thông báo cho hắn biết về chế độ khoan hồng của Chính phủ Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hắn sẽ được trở về đoàn tụ với gia đình, thì hắn bật thốt lên: “Il se peut que nous serons battus dans cette guere - Có thể chúng tôi sẽ thất bại trong cuộc chiến tranh này...”.
Đại tá NGUYỄN BỘI GIONG - Nguyên Chuyên viên cao cấp Ban Tổng kết lịch sử chiến tranh, Bộ Tổng Tham mưu