Qua nhiều kênh thông tin, chúng tôi may mắn tìm gặp được hai cán bộ tiền khởi nghĩa, từng có mặt tại Chiến khu Việt Bắc suốt 9 năm kháng chiến. Chiến dịch đầu tiên này, họ đã có mặt, “chia lửa” cùng đồng đội mặc dù không trực tiếp đánh địch...
Năm xưa, ở tuổi đôi mươi, với tinh thần sục sôi lửa cách mạng, hai người bạn vong niên Nguyễn Bội Giong-Nguyễn Hữu Tài từ hai hướng khác nhau có mặt tại Chiến khu Việt Bắc. Đại tá Nguyễn Bội Giong, vốn là Trung đội trưởng quyết tử quân Hà Nội (sau này là Bí thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguyên chuyên viên cao cấp Ban Tổng kết lịch sử chiến tranh, Bộ Tổng Tham mưu). Sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, giam chân địch trong 60 ngày đêm Toàn quốc kháng chiến, đã cùng những người lính của Trung đoàn Thủ Đô thực hiện cuộc phá vây thần kỳ vượt sông Hồng lên chiến khu gió ngàn. Ông sau đó theo học khóa 2-3 Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, lúc bấy giờ do đồng chí Hoàng Đạo Thúy làm hiệu trưởng. Ông nhớ lại: Trước tháng 10-1947, Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn đóng quân cách thị xã Bắc Kạn chừng 6km. Khi địch nhảy dù xuống thị xã thì trước đó vài ngày chúng tôi đã được lệnh thực hiện chế độ sẵn sàng chiến đấu. Cứ 4 giờ sáng là báo thức toàn bộ, tất cả học sinh quân ở các tiểu đội, trung đội mang hết quân tư trang, lương thực, thực phẩm... rời khỏi doanh trại hành quân về phía bắc. Chính vì vậy, khi địch nhảy dù thì chúng tôi đã hành quân về hướng Bản Thi để bảo vệ kho bạc của Trung ương và nơi ở của một số nhân sĩ cao cấp của Chính phủ đang ở đó, như: Cụ Bùi Bằng Đoàn, cụ Phan Kế Toại...
Đại tá Nguyễn Bội Giong (phải) và Đại tá Nguyễn Hữu Tài kể chuyện những năm tháng ở chiến khu. Ảnh: Ngọc Mai
Theo lời kể của Đại tá Nguyễn Bội Giong, ban đầu ta cũng bất ngờ trước kế hoạch của địch. Các cơ quan từ Văn phòng Tổng chính ủy, Bộ Tổng Tham mưu, Chính trị Cục... đã cơ bản hình thành tổ chức nhưng vẫn trong giai đoạn kiện toàn cơ quan chỉ đạo các cấp, nhất là khâu tổ chức lực lượng. Ta mới có hai trung đoàn chủ lực trực thuộc bộ, còn lại mới ở cấp tiểu đoàn hoặc thấp hơn. Vũ khí, khí tài thiếu thốn nhiều, phương tiện kỹ thuật còn yếu kém. “Những điều này mãi đến năm 1948 khi về nhận công tác tại Văn phòng Tổng chính ủy, được phân công tham gia việc tổng kết công tác của Văn phòng năm 1947, qua các phiên họp nghe ý kiến đánh giá tình hình của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Chánh văn phòng phụ trách công tác tổng kết và các tài liệu liên quan mới biết chứ hồi ấy tôi chỉ là anh học sinh quân, biết sao được”-Đại tá Nguyễn Bội Giong nói.
Trở lại với kỷ niệm của mình, Đại tá Nguyễn Bội Giong cho biết, thực tế Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn cũng là một mục tiêu tấn công tiêu diệt của thực dân Pháp khi nhảy dù xuống Bắc Kạn. Chúng cho rằng hành động bất ngờ xuất hiện sẽ “ngay lập tức đánh trúng trung tâm đào tạo, huấn luyện sĩ quan nòng cốt của Quân đội quốc gia Việt Nam” nhưng hóa ra lại đánh những lán trại “rỗng tuếch” bị bỏ không từ trước. “Theo lệnh của trên, nhà trường đã tổ chức biên chế thành một trung đoàn chiến đấu, do đồng chí Hoàng Đạo Thúy, Hiệu trưởng làm trung đoàn trưởng, trực tiếp chỉ huy 3 tiểu đoàn hành quân theo 3 hướng để bảo toàn lực lượng, và tạo cơ hội đánh địch”-Đại tá Nguyễn Bội Giong kể-”Ngay trong đêm 18-10, tôi được giao phụ trách 1 tiểu đội học sinh quân chỉ được trang bị lựu đạn và lưỡi lê, tổ chức tập kích một phân đội địch vừa nhảy dù trưa hôm đó xuống chiếm đồi Yên Thịnh, chuẩn bị đánh sâu vào khu Nghĩa Tá (đều thuộc phạm vi Chợ Đồn, Bắc Kạn)-lúc đó là nơi trú quân của một bộ phận quan trọng thuộc Bộ Tổng Tham mưu. Trận tập kích đêm đó tiểu đội tôi đã tiêu diệt một ổ trung liên của địch và làm bị thương 2 tên, buộc địch sáng 19 phải rút khỏi vị trí đó”.
Nhưng, như chia sẻ của Đại tá Nguyễn Bội Giong, có tác dụng lớn nhất trong việc đánh bại ý đồ hợp binh của địch ở khu vực phụ cận giữa Bắc Kạn và Chiêm Hóa là trận “tao ngộ chiến”-bất ngờ gặp địch và chủ động đánh của Tiểu đoàn 1, Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn do đồng chí Phan Phác, Phó tổng Tham mưu trưởng-phái viên cấp bộ trực tiếp chỉ huy tại Cầu Sắt (thuộc Chiêm Hóa, Tuyên Quang). Trận này, thầy và trò Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn đã đóng góp một chiến công lớn trong cuộc đại phá quân địch, bẻ gãy một gọng kìm của chúng. “Nhưng khóa 2-3 chúng tôi đã tổn thất một học viên ưu tú, liệt sĩ Vũ Hải Đường. Anh đã lập công xuất sắc, chặn đánh hai đợt phản kích của quân địch. Khi hy sinh tay anh vẫn nắm chắc khẩu súng trường được trang bị, và bên mình còn 3 vỏ đạn. Lúc đó, bắn mỗi viên đạn phải giữ được vỏ đạn mới được về đơn vị cấp bổ sung”-Đại tá Nguyễn Bộ Giong nhớ lại.
Cũng trong thời gian này, ở Chiến khu 12 (vốn là phân khu bắc của Chiến khu 3 gồm Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Hải Ninh-nay thuộc Quảng Ninh), tuy không phải là hướng chính của cuộc tiến công do thực dân Pháp chủ trương, nhưng như lời kể của đồng chí Nguyễn Hữu Tài (nguyên Phó cục trưởng Cục Quân huấn, Bộ Tổng Tham mưu), ông đã may mắn được thỏa nguyện khi từ một cán bộ chính trị được cấp trên giao nhiệm vụ ra thực địa, làm Chính trị viên Tiểu đoàn 413, có nhiệm vụ sẵn sàng “nghênh” địch ở khu vực Bố Hạ, Phỗng, Mẹt (thuộc Bắc Giang), giam chân chúng bên ngoài, bảo vệ cơ quan của khu đã rút sâu vào trong. “Lúc bấy giờ, chủ yếu đánh địch theo lối du kích bởi thực tình chúng tôi được trang bị rất ít vũ khí. Một đại đội chỉ có vài ba khẩu súng, 1 khẩu trung liên, cơ số đạn không đủ, chủ yếu là giáo mác, gậy tầm vông. Tôi là cán bộ tiểu đoàn cũng chỉ có một quả lựu đạn. Vậy nhưng không ai trong chúng tôi nhụt chí, luôn sẵn sàng ý chí gặp địch là đánh”-ông Tài nói.
Trong chiến dịch, chiến công nổi bật của Chiến khu 12 là trận đánh vang dội trên đèo Bông Lau ngày 29-10 của Trung đoàn 11 do đồng chí Thế Hùng (sau này là Tham mưu trưởng Quân khu Tả Ngạn và có thời gian là Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu) chỉ huy. Trận đó, ta chủ động đánh địch. Khi đoàn xe 30 chiếc của chúng đưa quân lên Cao Bằng, Trung đoàn 11 đã bố trí sẵn trận địa địa lôi chặn địch. Chiếc xe đầu đi qua, chiếc xe thứ hai vướng địa lôi nổ tung, chiếc thứ ba đứng khựng lại nhưng chỉ ít phút sau, liên tiếp nhiều quả địa lôi nổ khiến địch hoảng sợ, bỏ chạy tán loạn. Ta tiêu diệt nhiều sinh lực địch, buộc chúng phải rút lui. “Hồi ấy, chưa có thông tin vô tuyến điện nhưng thật tài tình, liên lạc chạy chân và truyền miệng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tin ta chặn lui đường tiến công của địch đến rất kịp thời, cổ vũ tinh thần anh em. Ở hướng của chúng tôi được lệnh chỉ đánh quấy rối, làm cho địch hoang mang “không biết đâu mà lần” nên không dám tiến sâu. Thế là cũng hoàn thành nhiệm vụ rồi”-Đại tá Nguyễn Hữu Tài nói...
BÍCH TRANG