Bảy mươi năm trước, ông là chàng trai 18 tuổi đầu quân về Đại đội 1, Tiểu đoàn 77, Liên khu 2 tham gia chiến đấu trong những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến tại Hà Nội. Sau khi nghỉ công tác ở cương vị Cục trưởng Cục Khoa học-Công nghệ-Môi trường (nay là Cục Khoa học Quân sự), ông tiếp tục được mời tham gia bộ phận làm tổng kết 60 ngày đêm chiến đấu của quân và dân Thủ đô. Là nhân chứng, lại là người làm công tác nghiên cứu, tổng kết về giai đoạn lịch sử này, điều ông tâm đắc chính là chủ trương “trong đánh, ngoài vây”, “nội công, ngoại kích”, trong đó có chiến công xuất sắc của các lực lượng chiến đấu Liên khu 2, 3 và vùng ven đô-các “chiến lũy vòng ngoài”…

Ông là Thiếu tướng Ngô Huy Phát, Phó trưởng ban liên lạc Chiến sĩ quyết tử Liên khu 2…

Liên lạc viên và hai phát súng đầu đời

Chuyện ông Phát vào quân ngũ cũng khá tình cờ. Tháng 10-1946, ông đang hoạt động trong Thanh niên cứu quốc, vừa phối hợp với Đoàn Thanh niên Liên khu 2 đưa đoàn di cư về Hà Nam tăng gia sản xuất thì có yêu cầu đến gặp chỉ huy Liên khu 2 tại vị trí đóng quân của Tiểu đoàn 77. Do ông Phát biết tiếng Pháp từ hồi học ở Trường Bưởi nên đoàn cán bộ đã đề nghị ông tham gia giúp đơn vị trong các giao dịch, quan hệ với phía Pháp. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ này, ông có quyết định ở lại Đại đội 1, Tiểu đoàn 77 làm liên lạc viên cho chỉ huy đơn vị.

Những ngày trung tuần tháng 12-1946, tình hình Hà Nội rất căng thẳng. Ngày 15 và 16-12, quân Pháp nổ súng ở nhiều nơi trong thành phố, bao vây và bắn vào các chiến sĩ công an ở Vườn hoa Hàng Đậu... Sáng 17-12, máy bay Pháp thám thính Hà Nội, sau đó cho xe ủi phá công sự của ta ở phố Lò Đúc. Tại Hàng Bún, chúng cho lính xả súng tàn sát đàn bà, trẻ em, làm hàng chục người chết và bị thương. Sau đó, bọn lính đến phố Yên Ninh lùng sục, bắn chết thêm nhiều người. Bốn giờ chiều cùng ngày, chúng dùng đại bác từ trong thành bắn ra phố Hàng Bún và Yên Ninh. “Chiều 19-12, khoảng 3 giờ, Đại đội trưởng Ngọc giao nhiệm vụ cho tôi đi tới các vị trí đóng quân để nắm tình hình các phân đội. Tôi đạp xe ra ga Hàng Cỏ thì các anh ở đây bảo đã chuẩn bị xong và sẵn sàng chiến đấu; tôi còn cười bảo: Nhớ để dành cho tôi ít đạn đấy nhé. Tôi đến nhà pha Hỏa Lò, rồi vòng về Bệnh viện Phủ Doãn, thấy bộ đội ta cũng đã ở trạng thái sẵn sàng bên cạnh các công sự và lô cốt bằng bao cát. Sang trung đội ở phố Nguyễn Du, tôi được Trung đội trưởng Thành dẫn đi xem hệ thống bố trí trận địa của đơn vị, anh còn khẳng định: Nó mà đến, anh tiêu diệt từ ngoài cổng. Tôi đạp xe về đơn vị báo cáo tình hình với anh Ngọc. Lúc này, trời đã nhá nhem tối”-ông Phát kể.

Buổi tối lịch sử 19-12 ấy, ông Phát được lệnh xuống trung đội dự bị của đại đội chờ lệnh. Khi đèn điện phụt tắt, hiệu lệnh tiến công vang lên, ông đi theo một tiểu đội đánh địch ở chốt Bà Triệu. Giọng hồ hởi, ông nhớ lại: “Trên người tôi không có vũ khí gì ngoài dao găm và một quả lựu đạn. Chúng tôi cơ động leo qua hàng rào vào chốt. Địch ở trên bắn như vãi đạn. Theo lệnh tiểu đội trưởng, tôi ném lựu đạn vào trong chốt, rồi rút dao lao vào. Trận đánh diễn ra nhanh gọn, một số tên bị chết tại chỗ, còn ba tên đầu hàng. Tôi thu được một khẩu Tôm-xơn, khoác vào người rất khoái chí, rồi lên chiếc xe Jeep thu được của địch đưa tù binh về đại đội bộ và nộp chiến lợi phẩm cho chỉ huy”.

Những ngày sau đó, ông Phát được đại đội trưởng giao đi trinh sát nắm tình hình địch và phổ biến nhiệm vụ tới các phân đội. Cho đến tối 22-12, sau khi theo mũi của Trung đội trưởng Thành đánh địch ở các chốt trên phố Quang Trung, ông được lệnh theo dõi hướng địch đánh về Trại Trung ương. Cơ động đến phố Nguyễn Công Trứ, quan sát thấy có bóng địch trong chốt, sẵn có hai viên đạn, ông mượn súng đồng đội và xin được bắn. “Lần đầu sử dụng súng nên hồi hộp lắm. Viên thứ nhất, bắn cày tường trước mặt; vẫn thấy địch lố nhố, tôi ngắm vào lỗ châu mai của chốt, bóp cò. “Trúng rồi, trúng rồi”, tôi vừa reo lên thì một quả cối moóc nổ chát chúa trước mặt, hất tôi ngược về sau. Bàn tay trái và đùi trái tóe máu. Tôi ngất đi. Sau hơn một tháng điều trị ở nhiều nơi, tôi hồi phục và tiếp tục về đơn vị công tác, chiến đấu”-ông Phát cho biết.

Chiến lũy vòng ngoài

Là nhân chứng của những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến, nhiều năm tâm huyết làm công tác tổng kết 60 ngày đêm chiến đấu của quân và dân Hà Nội, Thiếu tướng Ngô Huy Phát rất tâm đắc với chủ trương “trong đánh ra, ngoài đánh vào”, đặc biệt là sự phối hợp của các liên khu 2, 3 và vùng ven đô bằng nhiều cách đánh co kéo địch, buộc địch phải phân tán đối phó, làm giảm áp lực tấn công vào Liên khu 1 ở khu phố trung tâm. “Đây là cách đánh tuyệt vời, là mấu chốt để Hà Nội trụ vững suốt hai tháng-một “đại thắng lợi” như lời khen của Bác Hồ”-ông Phát khẳng định.

Để đối phó với địch chiếm ưu thế cả về lực lượng, vũ khí trang bị, trình độ chiến đấu, trước khi cuộc chiến nổ ra đã có nhiều ý kiến về cách đánh. Có ý kiến đề nghị nên tập trung lực lượng đồng loạt tiến công vào lực lượng chủ yếu của địch ở trong thành, ở Trường Bưởi nhằm tiêu diệt chúng. Lại có ý kiến nên xây dựng một số phòng tuyến trận địa để chặn địch. Sau khi bàn thảo, ta thấy rằng, không thể thực hiện cách đánh như các ý kiến đã nêu vì phải bảo toàn lực lượng đánh lâu dài. Nhiệm vụ của Hà Nội là phải tích cực tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, ngăn chặn chúng thời gian càng lâu càng tốt để tạo điều kiện chuyển đất nước sang thời chiến.

 Cách đánh bằng ba-ri-cát, tức chiến lũy đường phố đã phát huy tác dụng tốt. Các ba-ri-cát trên đường Hàng Bột, Khâm Thiên, Đội Cấn, Kim Liên đều chặn được địch, buộc chúng phải vòng đường khác. Đặc biệt, chiến lũy Ô Cầu Dền đã gây cho địch nhiều tổn thất. Xuất phát từ vị trí quan trọng, như một cái cổ chai của phía nam thành phố, Ô Cầu Dền đã được xây dựng thành một chiến lũy kiên cố, trở thành nơi phòng ngự then chốt của tuyến phòng ngự phía nam. Chiếc ụ chiến đấu cắt ngang mặt đường, có chiều dài khoảng 16m, chân rộng 8m, bề mặt rộng 4-5m, chiều cao 3m, sau còn tôn cao dần theo yêu cầu chiến đấu, cuối cùng cao tới 4,5m. Thân ụ chôn đứng 3 hàng cọc, mỗi hàng 10 cây gỗ đường kính 35-40cm, lòng ụ lèn đất đá kết hợp với tre, gỗ rải ngang từng lớp đầm chặt. Sau lần đầu tiên chiến đấu với địch ngày 25-12-1946, đồng chí Phùng Thế Tài, Chỉ huy mặt trận phía nam đã chỉ đạo dựng các ổ chiến đấu ở trên ụ và ven bờ đê của sông Tô Lịch nhằm ngăn chặn địch một cách chủ động… Tại chiến lũy này đã diễn ra nhiều trận đánh ác liệt giữa ta và địch. Chúng nhiều lần tổ chức tiến công với đủ các phương tiện kỹ thuật chiến tranh hiện đại vẫn không sao đột phá được chiến lũy của ta. Chỉ đến khi phát hiện phía sau bố trí của ta có sơ hở, ngày 15-1-1947, địch dùng các mũi vu hồi đánh vào bên sườn quân ta. Để bảo toàn lực lượng, ta đã chủ động tổ chức cho bộ đội và nhân dân rút khỏi khu vực Ô Cầu Dền. Mãi tới ngày 20-1-1947, sau mấy ngày giao chiến với ta ở Việt Nam học xá (nay là khu vực Trường Đại học Bách khoa), địch mới cho quân đi đập dỡ chiến lũy Ô Cầu Dền.

Ở phía tây nam nội thành, quân dân Liên khu 3 cũng kiên cường chiến đấu, tiêu hao, tiêu diệt và ngăn chặn địch. Tiêu biểu là các trận đánh ở Giảng Võ, Ô Chợ Dừa. Trong tài liệu của cố Trung tướng, GS, TS Đỗ Trình viết: “Ngày 6-1-1947, Pháp huy động gần 1.000 quân, 7 xe tăng, 10 xe bọc thép, xe ủi đất cùng pháo binh, máy bay yểm trợ đánh ra Ô Chợ Dừa, Giảng Võ. Dựa vào các trận địa, ụ súng, giao thông hào, ngõ ngách với nhiều cách đánh linh hoạt và tinh thần quả cảm, ta đã phá được cuộc tiến công của địch. Quân địch bị thương vong khoảng một đại đội, để lại 30 xác chết, một xe tăng, một xe ủi đất bị phá. Ta đã buộc địch phải ngừng tiến công ra các cửa ô trên hướng Liên khu 3”.

Theo tổng kết của Thiếu tướng Ngô Huy Phát thì sự phối hợp của các liên khu và một số vùng ven đô đã tạo sự chi viện, hỗ trợ cho nhau, càng về sau càng thể hiện rõ. Liên khu 2, 3 phòng ngự kiên cường, đánh bại 8 đợt tiến công của địch ở trong thành ra đều có sự phối hợp của Liên khu 1 đánh từ phía sau, làm cho địch lâm vào thế trước sau đều bị đánh, phải phân tán lực lượng không thể đánh chiếm nhanh thành phố.

Bốn giờ kể về câu chuyện 7 thập kỷ trước mà vị tướng 88 tuổi vẫn còn say sưa. Sợ ông mệt, tôi xin phép ra về khi Hà Nội đã sáng đèn. Tiễn tôi, ông còn báo thêm một tin vui: Dịp kỷ niệm 70 năm Toàn quốc kháng chiến năm nay, Hà Nội dự kiến sẽ khánh thành biểu tượng Chiến lũy Ô Cầu Dền trong khuôn viên Trụ sở UBND quận Hai Bà Trưng, gần vị trí chiến lũy năm xưa. Đây là sự vinh danh chiến công của các lực lượng chiến đấu vòng ngoài trong 60 ngày đêm khói lửa mà Chiến lũy Ô Cầu Dền là một biểu tượng tiêu biểu…

Thiếu tướng Ngô Huy Phát. Ảnh: VĨNH THĂNG

Ban chỉ huy đơn vị tự vệ kiểm tra công sự ở Ô Cầu Dền (tháng 1-1947). Ảnh tư liệu

THĂNG LONG