QĐND - CK là hình thức vận chuyển con người, vũ khí công khai, bán công khai với du kích mật trước mắt địch trong thời gian chiến tranh chống Mỹ ác liệt trên chiến trường miền Tây Nam Bộ. Phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trò chuyện với Đại tá Nguyễn Hồ, nguyên Chính trị viên Tiểu đoàn 804 thuộc Phòng Hậu cần Quân khu 9 (đơn vị phụ trách tuyến đường CK trong chiến tranh) về tuyến đường lòng dân CK hào hùng được viết bằng máu và nước mắt.
 |
|
Đại tá Nguyễn Hồ trao giấy chứng nhận cho các thành viên nguyên là lực lượng tuyến đường CK.
|
Đi bí mật đã là một chuyện khó, đi công khai trước mặt địch thì càng khó hơn nhiều, vậy tại sao quân và dân Đồng bằng sông Cửu Long lại sử dụng hình thức vận chuyển này? Tôi hỏi.
Đại tá Nguyễn Hồ cho biết: “Sau Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, địch bình định ác liệt ngăn cắt chiến trường Vĩnh Long-Trà Vinh với căn cứ U Minh, đồng thời đóng cửa biên giới Hà Tiên, Châu Đốc, làm cho việc vận chuyển vũ khí, đạn dược bằng đường du kích vô cùng khó khăn. Cả chiến trường Quân khu 8 và Quân khu 9 gồm các tỉnh Trung Nam Bộ và Tây Nam Bộ lúc bấy giờ thiếu trầm trọng về vũ khí, đạn dược, thuốc men, hóa chất… Tháng 12-1968, Quân khu 9 thành lập Hội đồng Cung cấp tiền phương Quân khu, có nhiệm vụ huy động mọi nguồn lực hậu cần chiến đấu, mà trọng tâm là huy động lực lượng và phương tiện vận tải, tổ chức tiếp nhận và vận chuyển hàng quân sự của Trung ương chi viện từ Cam-pu-chia về biên giới, từ biên giới về bằng đường biển, đường sông, đường bộ. Mặt khác, ta cũng sử dụng nhiều phương thức và lực lượng vận tải để đưa nhiều vũ khí về đến chiến trường. Giữa năm 1969, Phòng Hậu cần Quân khu 9 thành lập một đơn vị lấy phiên hiệu là S804 (còn gọi là Tiểu đoàn 804), dùng ghe hai đáy hoạt động vận tải theo phương thức CK (tức công khai), làm giấy tờ giả của địch, đi hợp pháp trên vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đưa vũ khí, hàng quân sự đến khắp các chiến trường. Đồng thời, đưa đón nhiều cán bộ trung, cao cấp từ quân khu về Bộ tư lệnh Miền và ngược lại bằng nghệ thuật đối phó trực diện với địch “tình, lý, tiền” làm phương tiện để qua mắt chúng”.
Ở chiến trường Quân khu 9, lực lượng vận tải Phòng Hậu cần Quân khu, ngoài chức năng vận chuyển vũ khí từ các kho của quân khu tiếp tế cho các đơn vị bằng phương thức bí mật như trước đây còn sử dụng phương tiện thủy, dùng giấy tờ “hợp pháp” trực tiếp lên biên giới nhận hàng chuyển về nội địa qua đường công khai. Lực lượng này được tổ chức theo hướng “quần chúng hóa, địa phương hóa và chuyên nghiệp hóa”, hoạt động theo nguyên tắc “đơn tuyến, đơn chiếc”. Hình thức tổ chức chủ yếu là nắm tư tưởng, động viên bà con, chú, bác, anh chị và các cháu nhỏ theo cha mẹ. Đây là những gia đình đã giác ngộ cách mạng, hoạt động kiểu đem cả gia đình, con cháu, dâu rể, cha mẹ, thậm chí nội ngoại cùng xuống chiếc ghe năm ba chục tấn giả dạng làm ăn, buôn bán khắp xứ.
Nhưng để đưa vũ khí từ chiến khu ra các mặt trận không chỉ có ghe hai đáy là đủ mà đòi hỏi có đội quân mưu trí, dũng cảm, dám làm và sẵn sàng hy sinh! Trên tuyến đường này đã có biết bao nhiêu câu chuyện diệu kỳ được dệt nên bằng những tinh thần đó. Như chuyện má Bảy và ông Út Đồng Hồ đóng giả vợ chồng, vận chuyển bằng vỏ lãi hai đáy từ U Minh (Cà Mau) về Vĩnh Viễn (Cần Thơ) 100 quả đạn B40 và B41 chiều mai có mặt để kịp giao cho Trung đoàn 1. (má Bảy là đảng viên chí cốt một thời nuôi chứa đồng chí Phan Ngọc Sến (Mười Kỷ, Bí thư Tỉnh ủy Cà Mau thời kỳ khó khăn Luật 10/59). Còn ông Út Đồng Hồ, tuy không phải là đảng viên, nhưng có rất nhiều kinh nghiệm đối phó, vì đã mấy lần bị địch bắt ở Sông Đốc, đồn Bà Kẹo, ông đều qua hết mà không lộ công việc của đơn vị). Chiếc vỏ lãi hai đáy (đáy dưới chở đạn, đáy trên chở chuối nguyên buồng) đã đi đến gần đập Hội Đồng Thành vì nặng quá nên không thể tự qua đập. Trong lúc hai thân già đang loay hoay tìm cách kéo vỏ qua đập thì thấy bọn lính ngụy đi càn quét vùng U Minh về ngang đó. Biết không thể tránh nên má Bảy nhanh trí gọi: “Mấy con ơi! Trời sắp tối rồi, mấy con ráng giúp kéo chiếc vỏ qua đập giùm, má cảm ơn. Trên ghe có chuối chín, bánh tét, bánh dừa, mấy con lấy ăn rồi tiếp má nghen!”. Bọn lính đang đói ráp lại kéo chiếc vỏ, nửa chừng nặng quá dừng lại hỏi: “Sao chiếc vỏ lãi này dài, bầu dều của lườn kỳ quá vậy bà? Hèn chi nặng thấy mẹ!”. Ông Út Đồng Hồ nghe tụi lính than có vẻ tình nghi, ông cũng lo lắng, nhưng ông bình tĩnh giải thích: “Tụi bây ơi, chiếc vỏ của tao cũ nên tao đắp thêm xi-măng. Thợ nó làm quá dày nên nặng vậy đó”. Qua được đập, ông Út và má Bảy thở phào nhẹ nhõm. Trưa đó, đến đồn Vĩnh Thuận (Rạch Giá) đậu nghỉ ăn trưa. Chẳng may, mấy đứa nhỏ nhảy xuống sông tắm, tụi nó lặn qua lặn lại đụng đầu vô lườn chiếc vỏ lãi, la ầm lên: “Tụi bây ơi, lặn xuống coi chiếc vỏ lãi này ngộ quá!”. Một lần nữa, ông Út thót mình, sợ tụi nó nói sẽ làm bọn lính và tề ở gần đó đến thì tai hại. Chưa ăn xong, ông Út và má Bảy liền nhổ sào chạy liền.
Một lần khác là sau Hiệp định Pa-ri, ta đang chiến đấu với 27 tiểu đoàn địch lấn chiếm Long Mỹ-Vị Thanh. Lệnh của đồng chí Lê Đức Anh (Sáu Nam), Tư lệnh Quân khu (sau này là Chủ tịch nước), trong vòng hai ngày phải chuyển nhanh từ Năm Căn về Long Mỹ 150 quả đạn cối 120mm. Tiểu đoàn 804 lúc này đóng ở Ba Đình (cách Năm Căn chừng 1 ngày đi bằng đường thủy). Nhiệm vụ lần này được giao cho cô Ba Nhứt (Ba Nhứt tuy không phải là đảng viên, nhưng rất chí cốt, đáng tin cậy. Cả gia đình gần chục người lớn nhỏ đều đi ghe công khai cho ta từ sau Mậu Thân 1968 và lập nhiều thành tích). Khi được giao nhiệm vụ xuất bến ngay, cô Ba nói: “Vì ngày mai mồng năm âm lịch, những người đi ghe không thể xuất bến, sợ xui!”. Rồi đề bạt ý kiến trong một giờ sau phải tìm cách mua khoảng 1.200 trái khóm, rồi ngày mốt xuất bến cũng bảo đảm thời gian của trên. Tất cả được huy động theo yêu cầu của bà Ba. Chuyến vận chuyển này đạt kết quả, đồng chí Tư lệnh Quân khu từ tiền phương điện về khen ngợi.
Bước phát triển mới của tuyến đường CK là sử dụng giấy tờ giả để “hợp thức hóa” vận chuyển hàng hóa và con người qua sự kiểm duyệt của địch. Phòng Hậu cần Quân khu 9 phân công đồng chí Nguyễn Hồ, đang làm Trưởng ban Quân lực thuộc Cục Hậu cần, về phụ trách công tác làm giấy tờ công khai hợp pháp, tức là giấy giả của ngụy. Công việc tưởng chừng đơn giản nhưng khá vất vả, bởi làm việc ngoài vườn phải cách xa dân, hoặc phải làm đêm để tránh người theo dõi lộ phương thức, nhất là bà con đến giao dịch, chụp ảnh, lăn tay… để làm giấy tờ hợp pháp, đặc biệt là lộ phương thức hoạt động công khai. Trong tổ bốn người, đồng chí Út Cực phụ trách khâu kỹ thuật, đồng chí Nguyễn Hồ chuyên lo giao dịch với khách hàng, nắm tình hình địch theo dõi xem Tỉnh trưởng nào thay đổi, chữ ký như thế nào để nhái theo. Riêng về khắc dấu phải dùng loại gỗ tốt nhất là cây dâu ở miệt Cái Tàu-U Minh. Đến năm 1973, địch không làm số đuôi căn cước nữa, thay vào đó là căn cước làm bằng nhựa rồng xanh mộc nổi, trong khi kỹ thuật này bộ phận làm giấy tờ giả của ta chưa làm được. Mấy tháng sau, bộ phận làm giấy công khai nhận được từ đường quân khu đem về giấy căn cước rồng xanh do Liên Xô (trước đây) giúp đỡ, ta chỉ về in chữ, gắn hình, nhận mộc nổi và ép nóng… Giấy tờ giả để hợp thức hóa đã làm cho người của tổ chức đi công khai đưa rước cán bộ, vận chuyển vũ khí yên tâm vững tin. Đại tá Nguyễn Hồ cho biết:
- Từ hình thức vận chuyển nhỏ, lúc đầu, đóng ghe chở từ 500kg đến 700kg, sau phát triển ghe có trọng tải lớn, có chiếc chở một tấn hàng. Có lúc tình hình quá khẩn cấp, bà con hiến kế phải chở xá (tức là dùng ghe không phải hai đáy), chỉ cần mua một ghe sâu lườn chất hàng xuống dưới, trên thì chất đầy bắp, bí, khoai, mía, dừa nước, dừa khô… Chất sao cho bít đầy để khi địch có xét hỏi thì đối phó bằng cách trả lời: “Đàn bà, con nít làm sao khuân vác hàng này lên nổi. Nếu mấy chú nghi ngờ thì kêu lính khiêng lên hết coi thiệt hay giả. Tụi tui là dân làm ăn thật thà mà!”. Sự ra đời của phương thức chở xá còn có ý nghĩa quan trọng là lựa chọn bà con phải gan dạ, vững vàng, có lối ứng xử với địch lưu loát, biết tạo ra mặt hàng buôn bán ở vùng nào đến, phải chở hàng gì, khéo nói, khéo ngụy trang. Đặc biệt, phải chọn người đã quen các tuyến đường, các đồn bốt nhiều lần đã đi qua, vì chở xá rất nguy hiểm, chỉ cần địch bốc hàng lên là thấy vũ khí ngay chứ không phải như ghe hai đáy.
Gắn với những chiến công hiển hách, CK còn mang thêm những giai điệu bi hùng của lòng dũng cảm và tình yêu Tổ quốc: Sau năm 1968, trong một chuyến vận chuyển, ông bà Chín (tên thường gọi là Chín) bị bọn giang thuyền bắt được tại cầu bắc Cần Thơ. Chúng neo ghe ông bà qua đêm chờ sáng sau giải về Vùng 4 chiến thuật. Đêm đến, ông bà quyết không để sáng ra lộ hết phương thức vận chuyển vũ khí này và mất hàng tấn vũ khí quý hiếm của cách mạng, nên nửa đêm ông lặn xuống sông, dũng cảm cắt dây neo thả cho ghe trôi xuôi dòng nước. Tuy cắt được neo, nhưng bà Chín ở trên ghe không đủ sức chèo chống. Đúng lúc đó địch lại phát hiện, do vậy, ông bà đã nhấn chìm ghe. Hai vợ chồng cùng chiếc ghe vĩnh viễn chôn vùi trong dòng sông Hậu. Sự hy sinh thầm lặng và tấm gương anh dũng của ông bà Chín cả đơn vị 804 còn nhắc mãi.
Những câu chuyện và ký ức về tuyến đường CK làm cho người lính già bồi hồi xúc động. Trước khi chia tay, Đại tá Nguyễn Hồ bắt tay tôi thật chặt và nói:
- Nhiều người dân và con em tham gia tuyến đường CK giờ còn vất vả lắm! Họ cống hiến, hy sinh cho cách mạng thầm lặng nên nhiều người không được hưởng chế độ, chính sách hỗ trợ. Chúng tôi vừa thành lập Ban liên lạc của Tiểu đoàn 804, với mong muốn chứng nhận và giúp đỡ phần nào cho thành viên, gia đình hoặc con em đã từng là lực lượng của tuyến đường CK. Nhưng biện pháp này cũng chỉ là tạm thời, mong sao Nhà nước có chế độ hỗ trợ, giúp họ ổn định cuộc sống.
Bài và ảnh: VIỆT HÀ - KIÊN GIANG