Năm 1972, tôi vào chiến trường Nam Lào, được biên chế về Đại đội 6, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 9 của Sư đoàn 968. Tiểu đội trưởng của tôi là anh Đỗ Xuân Trọng, một người trai xứ Đoài-Sơn Tây. Có một quy luật trong chiến trường là lính cũ kèm lính mới. Học mọi thứ hằng ngày để rồi tới một lúc nào đó bỗng nhận ra mình cũng đã là lính cũ, biết lúc nào cần phải chui xuống hầm, cần phải theo nhau chạy đứt hơi hoặc bình thản khi nghe tiếng những trái đạn pháo của địch xoẹt qua đầu.
Tiểu đội trưởng Trọng của tôi là một người rất khỏe, rất can đảm và chiến đấu giỏi trong mắt tôi. Còn về tình cảm thì thật như một người anh trai với cậu em mới lơ ngơ vào chiến trường, cái gì cũng hỏi. Mỗi tiểu đội có 1 khẩu súng chống tăng B40 và anh Trọng giữ luôn khẩu súng ấy. Ra trận cồng kềnh hơn, vướng víu hơn và nhất là lúc nổ súng thì sau mỗi phát đạn bắn ra là phải vận động nhanh khỏi vị trí đó để tránh phản đòn, vì hỏa lực luôn là mục tiêu ưu tiên tiêu diệt của đối phương. Hơn nữa, nếu không khỏe thì khó mà vận động nhanh và chịu được tiếng nổ lộng óc của súng B40.
Sau vài trận đánh ở tuyến trước, khi đơn vị được lui về tuyến sau củng cố, tôi mới có dịp lân la hỏi chuyện anh những lúc đi gùi hàng hoặc đi kiếm rau rừng cải thiện. Không thể ngờ được là anh Trọng lại không biết chữ, trong khi nhiều lần tôi được nghe anh báo cáo trung đội trưởng vanh vách những vị trí đào hầm, đường hành quân hoặc cơ số đạn đã tiêu thụ, cần phải bổ sung. Mọi thứ cứ ở trong đầu, chẳng phải ghi chép sổ sách gì khiến tôi nghĩ tiểu đội trưởng của mình siêu lắm. Bởi vì cái thằng mang danh học hết lớp 10 như tôi cứ có gì là phải ghi chép vào cuốn sổ nhỏ, chứ không chỉ vài ngày là quên mất.
    |
 |
| Nhà văn Vũ Công Chiến (bên phải) gặp lại Tiểu đội trưởng Đỗ Xuân Trọng, năm 2013. Ảnh do tác giả cung cấp |
Phải khá lâu sau, khi đã bỏ qua được mặc cảm giữa một người không biết chữ và một người học hết lớp 10, anh Trọng mới dần kể cho tôi nghe về hoàn cảnh gia đình. Bố anh mất sớm, mẹ anh tần tảo nuôi 5 người con trai đều còn nhỏ. Phải lo giúp mẹ nên hai anh đầu chỉ học hết lớp 4 là phải bỏ học. Ở vùng quê bán sơn địa ấy trường lớp không nhiều, người dân cũng chỉ lo sao cho đủ ăn. Anh Trọng và người anh sát trên đành chịu thất học. Chỉ có cậu em út được học tới lớp 7, đúng vào lúc anh Trọng là người con thứ tư lên đường nhập ngũ. 4 anh em trai vào bộ đội. Ở nhà chỉ còn mẹ và cậu út, không hiểu còn học tiếp được không. Tôi nghe mà buồn và thương anh Trọng, thương cả vùng quê nghèo trong chuyện kể của anh.
Nếu cứ đánh nhau và gùi cõng gạo, đạn phục vụ chiến đấu thì cái chuyện chữ nghĩa chẳng ai để ý tới. Những trận đánh liên miên, đơn vị tôi cứ vơi dần, nhưng tôi vẫn còn được chiến đấu bên Tiểu đội trưởng Trọng cho đến ngày ký kết Hiệp định Vientiane. Các bên cắm cờ phân tuyến, rồi chúng tôi được về tuyến sau củng cố.
Chúng tôi có điều kiện viết thư về nhà và chỉ vài tháng sau, lác đác đã có người nhận được thư nhà. Tất cả xúm vào đọc như những bức thư chung. Rồi tới lúc cả đại đội tôi ai cũng có thư nhà. Có những tin vui ở quê và có những tin chỉ kể chuyện chung chung, nhưng hầu như ai cũng vui và yên tâm. Tôi cũng vui vì nhận được tin nhà, nhưng rồi chợt nhận ra Tiểu đội trưởng Trọng thường lánh ra chỗ xa, vấn điếu thuốc rê ngồi hút, mắt như nhìn vào một nơi xa xăm trong cánh rừng già. Tôi tới bên anh, dè dặt nói chuyện nhà mình mong chia sẻ cùng anh, nhưng anh chỉ im lặng. Tôi bỗng thấy thương anh. Anh không thể viết thư về nhà thì làm sao ở nhà có thể viết thư vào cho anh được!
Mọi chuyện ở đơn vị vẫn bình thường, nhưng anh Trọng thì ít nói hơn. Thật may là chính trị viên của chúng tôi đã tìm ra cách giải quyết. Chỉ huy gặp tôi:
- Này, bây giờ đơn vị đang lúc huấn luyện, dù sao cũng có thời gian, hay là cậu dạy chữ cho cậu Trọng đi. Cậu được học nhiều chữ, các cậu lại cùng tiểu đội với nhau nên cũng tiện.
Tôi gặp Tiểu đội trưởng Trọng, tỉ tê thuyết phục mãi anh mới đồng ý với vẻ rất ngượng ngùng. Sau đó, chính trị viên đi quanh đại đội quyên góp được một lô giấy trắng và vài cây bút bi, toàn là chiến lợi phẩm lính ta lấy được. Chính trị viên bảo anh Trọng và tôi: “Bây giờ một thầy, một trò, chỉ thỉnh thoảng các cậu được nghỉ công tác chung thôi, còn phải tranh thủ thời gian là chính. Mà phải học cho nghiêm túc, thầy ra thầy, trò ra trò đấy!”. Tôi gãi tai cười, nhưng khi chỉ huy đi rồi, tôi nói:
- Thầy trò gì, anh em mình giúp nhau thôi. Em cố gắng dạy, còn anh chịu khó học là được. Lúc nào thấy oải thì ta nghỉ.
Thế là tôi bắt tay vào dạy anh Trọng học chữ. Chưa từng qua một trường lớp sư phạm nào, tôi lần mần nhớ lại ngày xưa mình học vỡ lòng thế nào thì nay dạy cho anh Trọng như thế. Tôi lấy gỗ mềm đẽo thành những miếng gỗ vuông mỏng nhỏ, dùng que sắt nung nóng khắc chữ cái tiếng Việt lên đó. Lại còn khắc thêm cả những miếng gỗ có các dấu thanh. Tôi khâu một cái túi bằng vải dù, bỏ tất cả miếng gỗ khắc vào đó. Thế là lúc ở đơn vị thì hai anh em bò ra dạy và học chữ cái rồi viết trên giấy. Khi đi công tác hay ra thao trường thì mang theo túi chữ, tranh thủ lúc nghỉ lấy ra tập ghép vần. Hôm nào anh em đi công tác mà chúng tôi được nghỉ ở đơn vị thì thoải mái hơn, không lo ai để ý bởi anh Trọng rất không thích lúc đang học có ai đó đến gần ngó nghiêng.
Có lẽ cách dạy học của tôi cũng gần được như cô giáo dạy tôi lúc vỡ lòng khi xưa và học trò của tôi rất chịu khó nên dần dà cũng có kết quả. Anh Trọng đã ghép được khá thành thạo những chữ đơn bằng các mảnh gỗ. Tới lúc này thì ít ngượng ngập hơn. Nhưng cũng có lúc bị mấy anh y tá, anh nuôi trêu chọc. Vì có hôm ở đơn vị học, không ra thao trường, tới bữa, chúng tôi xuống bếp ăn, anh Trọng vẫn có thói quen mang theo gói chữ đeo ở xanh tuya. Y tá Lộc nửa đùa nửa thật giở gói chữ gỗ của anh Trọng ra rồi xếp chữ, đố anh đọc. Tôi để im vì nghĩ anh Trọng được luyện ghép vần cũng hay. Không dè được đôi chữ tử tế xong thì y tá Lộc xếp chữ bậy. Anh Trọng ghép vần, đọc lên liền đỏ cả mặt, ngượng ngùng, còn các anh khác phá ra cười. Tôi phải vội kéo anh đi. Sau lần đó, tôi không bắt anh Trọng kè kè theo người túi chữ gỗ ấy nữa. Ít lâu sau, khi anh Trọng đã đánh vần và viết chữ khá hơn, tôi bỏ luôn cái túi chữ gỗ ấy. Từ đó, hai anh em chỉ viết chữ trên giấy.
Cứ thế, dần dà anh Trọng cũng viết được những từ đơn, rồi câu ngắn hoàn chỉnh. Chỉ có điều chữ anh to như hột ngô, rất khó để viết bé lại trên giấy ô li. Nhưng thế là tốt rồi! Thời gian cuối mùa mưa, đơn vị tôi được phát những cuốn Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Sau khi chi đoàn tổ chức đọc chung ở hội trường, “thầy trò” tôi được đặc cách cấp một cuốn để anh Trọng tập đọc thêm.
Cuối năm ấy, anh Trọng đã viết được một lá thư gửi về nhà. Tôi soạn nội dung theo ý anh rồi cho anh chép lại thư, còn địa chỉ trên phong bì tôi viết giúp. Cả đại đội đón tin vui này đúng dịp 22-12. Đích thân chính trị viên đem lá thư ấy gửi lên tiểu đoàn.
Tiếc là sau đó Trung đoàn 9 chúng tôi nhận nhiệm vụ về miền Nam chiến đấu nên anh Trọng không kịp nhận thư nhà. Rồi anh bị thương, phải ra Bắc.
Mấy chục năm sau gặp lại, anh Trọng “học trò” của tôi năm xưa giờ là một lão nông. Do không có điều kiện ôn luyện nên trình độ của anh vẫn chỉ như cậu học sinh học vỡ lòng. Nhưng khi nhắc lại chuyện xưa, ai cũng thấy vui.