Ông Lê Anh Chiến, bà Lương Thị Thoa cùng sinh ra ở một ngôi làng ven biển thuộc xã Hải An, huyện Tĩnh Gia (nay là phường Tân Dân), tỉnh Thanh Hóa. Nơi quê nhà, dù chỉ thoáng gặp nhau trong hội làng nhưng ông Chiến vẫn nhớ dáng người nhỏ nhắn, ánh mắt long lanh của cô gái với đôi quang gánh trên đường đê. Còn bà Thoa cũng ấn tượng với chàng trai cao gầy, gương mặt kiên nghị, lặng lẽ đứng nhìn từ xa kia.

Năm 20 tuổi, ông Chiến tham gia dân quân, cùng bộ đội chiến đấu với máy bay và tàu chiến địch trên vùng biển Thanh Hóa. Bà Thoa khi ấy là dân quân xã, đảm nhận nhiệm vụ chuyển thương binh từ trận địa về trạm cứu thương. Trong một lần tình cờ gặp lại, thấy bà vất vả khiêng cáng thương binh, ông nhẹ nhàng nói: “O nghỉ chút, để tôi khiêng cho”. Câu nói mộc mạc ấy đã mở đầu cho mối lương duyên của hai người.

Tháng 4-1968, ông Chiến viết đơn tình nguyện nhập ngũ và được biên chế về Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 57, Quân khu Hữu Ngạn (nay là Quân khu 3) làm nhiệm vụ bảo vệ vùng biển Thanh Hóa. Năm 1969, ông Chiến nhận nhiệm vụ ra đảo Hòn Mê, một trong những trọng điểm bắn phá của máy bay và tàu chiến Mỹ. Một năm sau, ông được về dự đại hội tổng kết với tư cách Chiến sĩ thi đua, tình cờ gặp mẹ bà Thoa cũng là đại biểu, ông mới lấy hết can đảm thưa: “Nếu được, con xin làm rể của mẹ”. Từ đó, những cánh thư vượt qua bom đạn từ đảo xa về đất liền, khi đến tay đã thấm mùi nước biển nhưng vẫn nối liền hai miền nỗi nhớ.

leftcenterrightdel
Vợ chồng cựu chiến binh Lê Anh Chiến và Lương Thị Thoa. Ảnh: LÊ NGUYỄN

Được gia đình đồng thuận, đám cưới của ông bà dự kiến diễn ra năm 1971. Nhưng ba lần cưới hụt, mỗi lần một lý do đã khiến mối tình của hai người trải qua thử thách.

Lần đầu tiên, khi tất cả công việc chuẩn bị cho ngày cưới đã xong thì bất ngờ có lệnh báo động khẩn cấp từ đơn vị, ông Chiến buộc phải gác hạnh phúc riêng, quay trở lại đảo làm nhiệm vụ. Bà Thoa đứng lặng bên cửa sổ, tay nắm chặt gói trầu cau vẫn còn nguyên vẹn, ánh mắt buồn nhưng vẫn đầy tin tưởng.

Lần thứ hai, ông Chiến về đất liền, đám cưới được lên kế hoạch chu đáo, không khí chuẩn bị đã rộn ràng. Nhưng biển cả khắc nghiệt, sóng to gió lớn khiến tàu chở ông về trễ. Vậy là lễ cưới của hai người lại không diễn ra như dự định.

Lần thứ ba, khi mọi người đều tin rằng lễ cưới sẽ diễn ra suôn sẻ, ông Chiến lại nhận lệnh khẩn về đơn vị. Mọi người ái ngại bảo rằng, con gái chờ đến ba lần cưới hụt là lỡ duyên. Bà Thoa dù lòng đầy khắc khoải vẫn không oán trách, âm thầm giữ vững niềm tin rằng tình yêu sẽ là điểm tựa để ông vượt qua gian nan, rồi một ngày không xa, họ sẽ cùng nhau đi đến bến bờ hạnh phúc.

Tháng 12-1972, ông Chiến được về đất liền 5 ngày. Nhân cơ hội ấy, đám cưới ông bà được tổ chức gấp, trầu cau sắm vội, dẫu đơn sơ mà vẫn chan chứa nghĩa tình và lời chúc mừng của bà con lối xóm. Bà Thoa nghẹn ngào nhớ lại: “Hai ngày sau, ông ấy lại khoác ba lô đi. Tôi lại ra biển đứng ngóng về phía hòn đảo nổi có hình bóng chồng”.

Sau ngày miền Nam giải phóng, đơn vị ông cơ động vào làm nhiệm vụ, chiến đấu ở chiến trường Tây Nam, bổ sung cho LLVT Quân khu 9. Bà ở lại quê nhà một mình gồng gánh nuôi con. Mấy năm sau ông mới trở về khiến các con không nhận ra cha ruột.

Tháng 7-1991, ông Chiến nghỉ hưu trên cương vị Trợ lý Phòng Chính sách, Cục Chính trị Quân khu 9. Gắn bó với miền Tây Nam Bộ, ông đưa vợ con vào Cần Thơ sinh sống. Ông bà tằn tiện đồng lương hưu ít ỏi và làm thêm để nuôi 4 người con ăn học nên người. Nay trong gia đình ba thế hệ sum vầy, tiếng cười luôn rộn rã. Dù tuổi đã cao, song ông bà vẫn luôn dành cho nhau tình yêu thương và lòng cảm phục. Bà Thoa chia sẻ: “Tôi thương ông ấy vì lúc gian khổ nhất, ông ấy vẫn đặt Tổ quốc lên trước”. Ông Chiến mỉm cười và nói: “Nếu không có sự chờ đợi của bà, chắc tôi chẳng thể hoàn thành nghĩa vụ với đất nước”.