60 năm trước, vào tháng 9-1965, quân đội Mỹ điều Sư đoàn Kỵ binh không vận số 1 lên án ngữ tại An Khê-Gia Lai nhằm mục đích chia cắt địa bàn hoạt động của Quân giải phóng ở Tây Nguyên với vùng đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ.

Trước tình hình đó, thay vì tập trung lực lượng giải phóng Bắc Tây Nguyên như kế hoạch đã được vạch ra trước đó, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3) quyết định mở Chiến dịch Plei Me nhằm mục đích phối hợp với chiến trường toàn miền tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ để mở rộng và củng cố vùng giải phóng, củng cố căn cứ địa, xây dựng quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ; đồng thời qua đó rèn luyện bộ đội và cơ quan chiến dịch nhằm đương đầu với đối tượng tác chiến mới.

leftcenterrightdel

Các cựu binh Mỹ và cựu chiến binh Việt Nam thăm lại chiến trường Ia Đrăng, năm 1993. Ảnh: VIỆN SỬ

Trước Chiến dịch Plei Me, mặc dù ta đã có trận Núi Thành (tháng 5-1965) và Vạn Tường (tháng 8-1965) đánh thắng quân Mỹ, song ở cả hai trận đó, bộ đội ta mới chỉ chạm trán với lính thủy đánh bộ và cũng chỉ mới tiêu diệt được cấp đại đội quân Mỹ. Còn ở Chiến dịch Plei Me, bộ đội Tây Nguyên phải trực tiếp chiến đấu với cả một sư đoàn kỵ binh không vận-một tổ chức quân sự mới của quân đội Mỹ được hiện đại hóa đến mức cao nhất, đặc biệt là ở khả năng cơ động và tác chiến.

Đơn vị này lần đầu tiên có mặt và tham chiến ở chiến trường miền Nam Việt Nam. Sinh thời, Đại tướng Đoàn Khuê, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trong thời gian chiến dịch là Phó chính ủy Quân khu 5, kể: Bộ tư lệnh Quân khu 5 đã tập trung chỉ đạo quân và dân trên địa bàn quyết đánh và đánh thắng quân Mỹ cho dù ở cấp nào, sắc lính nào, nhằm tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực Mỹ và quan trọng hơn thế là để rút kinh nghiệm, đồng thời giải quyết tư tưởng “ngại Mỹ” xuất hiện trong một bộ phận cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Nếu trong chiến dịch này ta không đánh được kỵ binh bay Mỹ thì tình hình chiến trường Tây Nguyên sẽ gặp khó khăn nhiều. Vì vậy mà Chiến dịch Plei Me có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng.

Chiến dịch Plei Me diễn ra trong bối cảnh như vậy. Bộ tư lệnh chiến dịch gồm: Thiếu tướng Chu Huy Mân, Tư lệnh kiêm Chính ủy; các Phó tư lệnh: Đại tá Nguyễn Chánh và Thượng tá Nguyễn Hữu An. Chiến dịch diễn ra từ ngày 19-10 đến 26-11-1965, với 3 đợt. Đợt 1: Vây đồn Plei Me, đánh quân ngụy đi ứng cứu giải tỏa. Đợt 2: Tiếp tục vây đồn Plei Me, buộc quân Mỹ nhảy vào tham chiến. Đợt 3: Thu hút và dồn quân Mỹ vào thung lũng Ia Đrăng để tiêu diệt và kết thúc chiến dịch. Tham gia chiến dịch có 3 trung đoàn bộ binh: 66, 320 và 33; 1 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn súng máy phòng không cùng lực lượng vũ trang địa phương. Về phía địch có Sư đoàn Kỵ binh không vận số 1 của Mỹ, 1 chiến đoàn dù và 1 chiến đoàn thiết giáp ngụy.

Với phương châm “đánh điểm, diệt viện”, đêm 19-10-1965, được sự phối hợp của pháo binh và LLVT địa phương, Trung đoàn 33 nổ súng tiêu diệt đồn tiền tiêu Chư Ho và vây ép đồn Plei Me, buộc địch phải đưa chiến đoàn thiết giáp đi ứng cứu, giải tỏa. Ngày 23-10, chiến đoàn này đang trên đường đến Plei Me thì bị bộ đội ta chặn đánh thiệt hại nặng trên Đường 21. Trước tình hình đó, tướng Westmoreland đích thân lên thị sát Tây Nguyên đã chỉ thị “phải tìm địch và cướp lấy quyền chủ động về tay mình”; đồng thời lệnh cho Bộ tư lệnh Sư đoàn Kỵ binh không vận số 1 Mỹ tung Lữ đoàn Kỵ binh không vận số 1 vào tham chiến. Sự có mặt của quân Mỹ làm cho cường độ hỏa lực của địch tăng lên đột biến. Trong những ngày cuối tháng 10, đầu tháng 11-1965, chiến sự diễn ra giằng co và hết sức quyết liệt. Địch liên tiếp mở nhiều cuộc tiến công thăm dò, tập kích vào sâu trong hậu cứ chiến dịch, nhưng đều bị bộ đội ta chặn đánh và bẻ gãy. Nhiệm vụ bao vây Plei Me và thu hút quân Mỹ cơ bản đã hoàn thành, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định kết thúc đợt 1.

Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh Sư đoàn Kỵ binh không vận số 1 tiếp tục tung “con át chủ bài” là Lữ đoàn Kỵ binh không vận số 3 vào tham chiến nhằm đảo ngược tình thế. Sau khi phát hiện được vị trí đứng chân của Trung đoàn 66, bằng chiến thuật “nhảy cóc”, địch dùng trực thăng đổ quân xuống khu vực núi Chư Pông hòng bất ngờ đánh vào sau lưng đội hình của ta, nhưng bị Trung đoàn chặn đánh quyết liệt, buộc phải dồn đội hình xuống thung lũng Ia Đrăng co cụm phòng ngự. Để hỗ trợ cho binh lính kỵ binh không vận, Mỹ sử dụng máy bay các loại thay nhau ném bom quần nát địa bàn vùng núi Chư Pông. Ngày 17-11, địch tiếp tục đổ chiến đoàn dù xuống khu vực Đức Cơ hòng chia cắt đội hình của ta. Dựa vào trận địa đã chuẩn bị sẵn, lực lượng của Trung đoàn 66 và Trung đoàn 33 tổ chức bao vây, chia cắt quân địch. Bằng lối đánh gần, sau hơn 8 giờ quần nhau với quân Mỹ, bộ đội ta đã làm chủ trận địa, tiêu diệt phần lớn tiểu đoàn quân Mỹ, hoàn thành thắng lợi trận then chốt của chiến dịch.

Trong chuyến thăm và trao đổi với Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam vào tháng 7-1989 về trận Ia Đrăng, Neil Sheehan-tác giả cuốn sách “Sự lừa dối hào nhoáng” nổi tiếng ở Mỹ về chiến tranh Việt Nam-thừa nhận: “Trong trận này, không quân và pháo binh Mỹ có vẻ vô tích sự. Trận đánh trở nên tệ hại nhất”. Còn Trung tướng H.Moore, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn Kỵ binh không vận của Mỹ, khi trở lại chiến trường Ia Đrăng sau 28 năm (năm 1993) đã thừa nhận: Chỉ trong thời gian ngắn, một tiểu đoàn quân Mỹ đã bị xơi gọn. Đây là trận đầu lính kỵ binh không vận Mỹ chạm trán với quân đội Bắc Việt và đã thất bại.