QĐND - Tháng 8-1978, tôi là sĩ quan tác chiến của Phòng Tham mưu Sư đoàn 31, Quân đoàn 3, làm nhiệm vụ phòng ngự, giữ vững hành lang từ bình độ 50 đến dãy núi cao điểm 112 và 115 Kông Kênh thuộc huyện Mimot, tỉnh Công Pông Chàm (Cam-pu-chia) để bảo đảm cho lực lượng ta vào Đầm Be cứu giúp lực lượng của bạn đã ly khai khỏi chính quyền Pôn Pốt. Những người nổi dậy đó đang bị quân địch bao vây. Lực lượng này do ông Hiêng Sam-rin, Sư đoàn trưởng Sư 3 chỉ huy cùng ông Chia Xim (Chea Sim)-Ủy viên Hội đồng Trung ương của Pôn Pốt phụ trách khu vực miền Đông. Hai ông là những lãnh tụ đầu tiên của nhân dân Cam-pu-chia nhận thức được nguy cơ diệt chủng của chế độ Khơ-me Đỏ nên quyết định ly khai và kêu gọi sự giúp đỡ của Việt Nam.
 |
Tác giả (đứng sau) cùng đồng đội tại cổng Bắc đền Ăng-co Thom, tháng 3-1978. Ảnh tư liệu.
|
Với lực lượng mạnh, có thiết giáp hỗ trợ, sư đoàn đã giải tỏa thành công và đón lực lượng của bạn khoảng 300 người với một số súng bộ binh nhưng hết đạn, hết lương thực. Tháng 12-1978, Mặt trận dân tộc cứu nước Cam-pu-chia được thành lập và ra mắt. Ông Chia Xim (sau này là Chủ tịch Quốc hội Cam-pu-chia), giữ chức Chủ tịch, ông Hiêng Sam-rin làm Tổng tư lệnh. Với lòng căm thù chế độ diệt chủng Khơ-me Đỏ, với quyết tâm cứu đất nước Cam-pu-chia thoát khỏi thảm họa diệt vong, được sự giúp đỡ hết mình của Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam, đặc biệt là Quân tình nguyện, chỉ trong 3 ngày tổng tiến công trên toàn tuyến biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia, lực lượng của Mặt trận dân tộc cứu nước Cam-pu-chia và Quân tình nguyện Việt Nam đã giải phóng toàn bộ phía Đông sông Mê Công của nước bạn.
Trong thời gian chờ lệnh tiến công tiếp, các đơn vị của Sư đoàn 31 có nhiệm vụ truy quét tàn quân Pôn Pốt ở vùng mới giải phóng, hỗ trợ, giúp đỡ nhân dân nhanh chóng ổn định cuộc sống. Khi đó sư đoàn bộ dừng chân ở Suông-chup sát bên dòng Mê Công hùng vĩ mà bên kia là thị xã Công Pông Chàm. Nơi sư đoàn bộ đội Việt Nam chúng tôi tạm dừng chân là một xưởng sản xuất tân dược của Pôn Pốt và là trung tâm của huyện. Tại đây, chúng tôi được tận mắt chứng kiến tội ác dã man mà bọn Pôn Pốt đã gây ra cho nhân dân Cam-pu-chia. Suông-chup vốn là một thị trấn có đất đai tốt tươi, màu mỡ, với những cánh rừng cao su bạt ngàn, những cây cao su cổ thụ cao vút, đường kính có khi lên tới 40cm. Đây cũng là nơi cư trú của rất nhiều công nhân trồng và khai thác cao su. Do địa tầng cấu tạo bởi đất bazan, dân cư, công nhân ở đây phải đào giếng khơi tập thể để lấy nước sinh hoạt, giếng rất lớn đường kính tới 4m, sâu tới 20m. Vậy mà không thể tưởng tượng được, gần như 100% số giếng ấy trở thành những ngôi mộ tập thể. Nhìn xuống giếng chúng tôi không thể biết số người bị giết, bị ném xuống là bao nhiêu, chỉ biết rằng có lẽ có đến hàng trăm cái đầu lâu. Có giếng xương người chỉ cách bờ chưa đầy 2m.
Từ thực tế đau thương đó, cấp trên chỉ thị mỗi đơn vị phải tổ chức một đội công tác đặc biệt có nhiệm vụ kiểm tra, rà soát tình hình, chấp hành kỷ luật chiến trường, công tác chính sách dân vận để giúp bạn. Đội công tác đặc biệt của sư đoàn do đồng chí Phó chính ủy Mai Duy Cần phụ trách, tôi được giao nhiệm vụ phụ trách tác chiến, tù hàng binh. Tôi còn nhớ: Đội công tác vừa thành lập được 3 ngày thì nhận được tin báo tại một phum (làng) cách Suông-chup khoảng 20km có lực lượng của Pôn Pốt đang bao vây khống chế khoảng 100 người dân, trong đó có vợ và con gái ông Chia Xim.
Lập tức, tôi được yêu cầu đi cùng Trung đội 7, Đại đội 7, Trung đoàn 866 do đồng chí Thống-Đại đội trưởng chỉ huy và được tăng cường thêm 2 khẩu ĐKZ-82 đến giải cứu.
Chỉ sau nửa ngày hành quân, chúng tôi đã đến khu vực được báo là có tàn quân Pôn Pốt đang khống chế nhân dân. Trời về chiều, cách khoảng 5km tôi cho lực lượng dừng lại để tổ chức nắm tình hình địch, chuẩn bị phương án tấn công. Vì phải đảm bảo an toàn tuyệt đối cho nhân dân, nhất là người già, phụ nữ và trẻ em nên tôi quyết định ngay trong đêm phải chia làm 2 mũi vừa tiếp cận vào phum bao vây, vừa trinh sát nắm tình hình địch.
Sau khi thống nhất phương án tấn công, cán bộ các tiểu đội về quán triệt cho phân đội của mình và hết sức khẩn trương, bí mật triển khai vào vị trí chiến đấu.
Trời về cuối năm nên 6 giờ 30 phút sáng vẫn còn mờ sương, bỗng một tình huống bất ngờ xảy ra: Ở mũi chủ yếu có một tên địch có lẽ đi vệ sinh sáng nên không mang vũ khí, đã đi thẳng về phía một tổ chiến đấu. Khi cách khoảng 4-5m, phát hiện thấy bộ đội ta, hắn quay đầu tháo chạy, vừa chạy vừa hoảng hốt kêu to. Tình huống đó buộc tổ chiến đấu phải nổ súng ngay. Cùng lúc toàn đơn vị đồng loạt tấn công. Ban đầu là AK, rồi B40, B41, M79 nhất tề phát hỏa, làm vang động cả núi rừng. Kẻ địch hoảng loạn, không kịp trở tay, tháo chạy tán loạn. Chớp thời cơ, hết loạt súng ban đầu toàn đơn vị nhất loạt xung phong, tiến thẳng vào giữa phum. Chỉ trong 10 phút, chúng tôi đã làm chủ trận địa, tiêu diệt tại chỗ 12 tên, thu 6 súng AK. Quân ta an toàn, không có thương vong.
Tiếp đó, chúng tôi chia mỗi trung đội đảm nhiệm một khu vực, vừa dùng tiếng Khơ-me gọi hàng, vừa tảo trừ những khu vực địch đã ở. Đồng thời vào từng góc nhà, gốc cây đưa dân về điểm tập kết, tổng số gần 150 người, toàn là người già, phụ nữ, trẻ em trong tình trạng đói lả. Ngay lập tức chúng tôi phát lương khô và nước uống cho bà con dùng tạm, sau đó đưa họ về địa điểm an toàn. Nhìn cảnh đói khát, tiều tụy của bà con, chúng tôi ai nấy đều xót xa, thương cảm.
Riêng trường hợp vợ và con gái ông Chia Xim, sau khi tập trung kiểm tra xác định được chính xác, chúng tôi không ngờ, mặc dù đã 12 tuổi xong cô con gái ông Chia Xim gầy còm, nhỏ bé. Cho họ ăn uống xong, tôi cùng tổ bộ binh hộ tống, dẫn họ ra đường ô tô nơi có xe đón đưa về sư đoàn bộ. Ngay chiều hôm đó, quân đoàn cho xe chở ông Chia Xim đến sư đoàn cảm ơn và đón vợ cùng cô con gái về căn cứ. Khó có thể diễn tả hết tâm trạng của chúng tôi khi chứng kiến cảnh đoàn tụ hạnh phúc này...
ĐẶNG ĐÌNH VIÊN