QĐND - Tháng 1-1979, hoàn thành nhiệm vụ tiến công địch, giải phóng thị xã Pô Xát của Cam-pu-chia, bắt liên lạc với Sư đoàn 330 của Quân khu 9, Trung đoàn 66 (Sư đoàn 10), chúng tôi quay lại thành phố Bát Đom Boong nhận nhiệm vụ đánh địch ở phía tây thành phố, qua khu vực ba núi đến tận thị trấn Pai Lin, giáp biên giới Thái Lan. Tiêu diệt địch xong, Trung đoàn nhận nhiệm vụ đứng chân ở thị trấn Pai Lin, lùng sục, truy quét tàn quân Pôn Pốt.

Tình hình trở nên khác thường khi bộ binh và xe tăng địch liên tục phản kích. Ngay sau đó, Thiếu tướng Kim Tuấn, Tư lệnh Quân đoàn 3, cùng Trưởng phòng Tăng-Thiết giáp và một số cán bộ cơ quan xuống sở chỉ huy Trung đoàn, ra tận mặt đường để thị sát thì nhận định có vết xích Xe tăng T58 của địch. Quân đoàn đề nghị sở chỉ huy tiền phương của Bộ sử dụng máy bay chụp ảnh toàn bộ khu vực từ Tây Nam thị trấn Treng đến Nam Pai Lin, Tây thị trấn Mong đến tận biên giới Thái Lan. Qua đó, tiền phương Bộ và Quân đoàn nhận định: Tà Sanh là căn cứ lớn, có các cơ quan Trung ương của bọn Pôn Pốt, xung quanh còn có một số dân bị địch bắt đi theo, tạo vành đai để ngăn chặn lực lượng ta. Hạ quyết tâm tiến công vào sào huyệt cuối cùng của địch, Quân đoàn 3 và Sư đoàn 10 giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 66: Vừa nắm, đánh địch, vừa giải cứu dân, tạo thế để Quân đoàn tập trung lực lượng đánh vào căn cứ Tà Sanh.

Sau một tuần trinh sát, bộ đội ta phát hiện ra ba cụm dân, mỗi cụm khoảng 700-800 người, có đại đội địch bố trí ở vòng ngoài để khống chế. Phương án bàn tính lúc này là: Đánh cách nào để tiêu diệt được địch, giải cứu được dân mà không ai bị thương vong. Trao đổi nhiều lần, chỉ huy Trung đoàn quyết định: Lợi dụng đêm tối, bộ đội áp thật sát địch, chờ đến sáng thì bất ngờ tiến công, đánh tạt quân địch sang hai bên để mở đường, rồi dùng loa kêu gọi người dân chạy về phía ta. Đúng như dự kiến, ta bất ngờ tiến công khiến địch không kịp chống cự. Tuy vậy, lực lượng phía sau của địch lại bắn vào người dân đang chạy gây thương vong. Đến 11 giờ trưa, đơn vị mới tiêu diệt hoàn toàn quân địch, liền tổ chức cảnh giới bảo đảm an toàn cho nhân dân.

Bộ đội Việt Nam chăm sóc cho các trẻ em Cam-pu-chia, năm 1979. Ảnh tư liệu.

Tốc độ di chuyển của đoàn rất chậm do phải dìu dắt, khiêng cáng người ốm đau, người bị thương. Đến gần 2 giờ chiều, ta mới đưa được toàn bộ số dân ra khỏi vùng có chiến sự khoảng hơn một ki-lô-mét. Đúng lúc đó, trời đổ mưa to. Gần tối, khi cơn mưa vẫn chưa tạnh, một phụ nữ Cam-pu-chia đột ngột trở dạ. Bằng những mảnh vải mưa của bộ đội trao cho, người dân đứng căng ra tạo thành một cái lán nhỏ che cho y tá đỡ đẻ. Hơn ba giờ sau, cháu bé chào đời. Tới bờ sông, công binh phải lặn trong đêm tối để tìm ra đoạn sông hẹp, rồi cưa đổ cây to làm cầu đưa dân qua trong lúc nước lũ dâng cao.

Vừa qua sông, thấy những bước chân rệu rã vì đói và mệt của người dân, cự ly cũng đã an toàn, Trung đoàn chỉ đạo cấp gạo và cho dân mượn soong, nồi để nấu cháo. Đồng thời cho phiên dịch giải thích với dân: “Nhịn đói lâu ngày phải ăn cháo, chưa ăn được cơm, khi nào ăn được cơm, bộ đội sẽ cấp nhiều gạo hơn”.

Cuối cùng, bộ đội ta cũng đưa được dân về đến phum sóc. Chưa kịp ổn định cuộc sống thì lính Pôn Pốt lại lén lút quấy phá. Lợi dụng một tối trời mưa, một tốp lính địch luồn vào phum sóc đưa cho ba người phụ nữ Cam-pu-chia ba quả mìn chống tăng rồi bắt họ thả vào ba vũng nước. Chúng đe dọa nếu mai không thấy xe của Việt Nam bị cháy, cả ba người phụ nữ này sẽ bị giết. Hoảng sợ, ba người phụ nữ làm theo lời kẻ địch nhưng gần sáng khi lính Pôn Pốt đã rút đi, họ vào đơn vị báo ngay cho bộ đội biết. Sợ bị trả thù, họ một mực van xin được đi theo bộ đội Việt Nam, nhất định không chịu quay về phum sóc. Để bảo đảm an toàn tính mạng cho ba người phụ nữ này, Trung đoàn tiếp nhận và ghép họ vào tổ phiên dịch người Cam-pu-chia để làm công tác dân vận.

Theo lệnh của sư đoàn, đơn vị bàn giao toàn bộ phiên dịch và người Cam-pu-chia cho chính quyền tỉnh trước lúc hành quân về tỉnh U Đông nhận nhiệm vụ mới. Ngày chia tay lưu luyến với những hàng nước mắt thắm đượm tình quân dân.

Thiếu tướng BÙI THANH SƠN