Ngày 16-4-1970, tôi nhập ngũ khi gần tròn 18 tuổi (ông sinh ngày 12-5-1952, tại Tam Kỳ, Kim Thành, Hải Dương - PV). Lúc bấy giờ nhà nghèo lắm, chẳng có gì. Bố tôi bắt con gà mái đang ấp làm thịt để liên hoan tiễn con lên đường. Sau khi nhập ngũ, tôi được đưa đi đào tạo lái xe tại Trường 255 (nay là Trường Cao đẳng Công nghệ và Kỹ thuật ô tô, Cục Xe-Máy, Tổng cục Kỹ thuật). Học xong tôi được điều về Đại đội 23 (Tiểu đoàn 60, Binh trạm 32, Bộ đội Trường Sơn). Tôi làm nhiệm vụ lái xe vận chuyển hàng hóa chi viện cho chiến trường miền Nam từ tháng 10-1970 đến tháng 3-1975, đúng vào giai đoạn địch đánh phá ác liệt nhằm ngăn cản sự chi viện của ta. Vì vậy mà Đường Hồ Chí Minh bị cày nát bằng đủ các loại vũ khí chiến lược của Mỹ. Ngày ấy, tôi được phân về Tổ Mũi nhọn, thường có từ 4 đến 6 xe chạy lấn ngày, thâu đêm, làm nhiệm vụ nghi binh thu hút địch tạo điều kiện cho đơn vị hoàn thành nhiệm vụ. Chính cái nhiệm vụ “mồi nhử bom đạn” này đã cho tôi khá nhiều kinh nghiệm “tránh đạn” trong quá trình vận chuyển sau này. 1.364 tấn hàng, 900 chiến sĩ từ Bắc vào Nam và 480 thương binh về tuyến sau đã được tôi vận chuyển tới đích an toàn qua 78.600km, tiết kiệm được 2.870 lít xăng. Nhiều lần xe tôi bị OV10 phát hiện bắn hỏa mù báo hiệu, lập tức chiếc F4 xuất hiện bay vòng quanh ngay trên đầu chúng tôi. Biết rất rõ chúng phải tìm điểm đồng tốc để bắn (tức là nó nhằm phía sau mình từ máy bay xuống xe tạo thành một đường thẳng nghiêng), tôi bảo cậu phụ lái hãy quan sát khi nào chúng vào được điểm đồng tốc thì báo tôi. Máy bay địch vừa bay, vừa bắn nên tôi chỉ việc cài số lùi là đạn sẽ vượt lên đoạn đường trước mặt.

leftcenterrightdel

Vợ chồng Đại tá Hoàng Đình Chiến. Ảnh chụp lại

Tại các cao điểm, địch thường bắn phá theo quy luật về tọa độ thời gian. Vì vậy, trên cung đường vận chuyển của mình, tôi thuộc nằm lòng từng điểm cao. Ví dụ đến cao điểm này vào giờ G mà chưa thấy địch đánh phá thì tôi cho xe dừng cách xa chừng 1km để chờ khi nào chúng đánh phá mới vượt qua. Nhờ những bài tránh đạn này mà tại thời điểm đó cứ 1 tháng thì có tới 25 ngày địch bắn phá, nhưng tôi, xe và hàng vẫn an toàn. Và cũng nhờ đó mà tôi thường dẫn đầu đơn vị các chỉ số “vượt cung, tăng chuyến, tăng năng suất vận chuyển”. Chỉ tiêu trên giao là cứ 2 đêm vận chuyển được 1 chuyến, nhưng tôi 3 đêm vận chuyển được 2 chuyến với cung đường dài 120km.

Năm 1971, trong Chiến dịch Đường 9-Nam Lào, địch đánh phá rất ác liệt cung đường vận chuyển của chúng tôi. Tôi được phân công xuyên tuyến cung đường 100km này, có tháng đi liền 30 ngày đêm, thời gian ngủ chỉ tranh thủ xen kẽ lúc bốc xếp hàng. Tôi nhớ nhất là lần vượt qua đèo Tha Mé trên cung đường vận chuyển từ Binh trạm 32 vào Binh trạm 33. Tháng 3-1971, khi tôi đã hoàn thành chuyến hàng về đến đèo Tha Mé thì cả một đoàn xe bị chặn lại từ chân đến đỉnh đèo. Hỏi đường sá làm sao thì được biết có bom từ trường không đi được. Tôi cho xe vượt lên. Lên đến gần đỉnh thì thanh niên xung phong họ chặn lại, yêu cầu chúng tôi dừng xe để chờ lực lượng đến phá bom. Tôi nghĩ nếu cứ chờ thế này thì không chỉ có mình mà tất cả đoàn xe này bị lỡ chuyến. Mà đã lỡ chuyến thì rất dễ bị rơi vào thời điểm trên cung đường chết sẽ rất nguy hiểm cho nhiều người, hậu quả khó có thể lường trước được. Tôi nói với họ để tôi đi phá bom cho. Anh Vượng (Thượng sĩ Nguyễn Đức Vượng-Chính trị viên phó Đại đội) ngồi cùng xe với tôi bảo cứ bình tĩnh. Tôi quả quyết: “Anh xuống xe đi để tôi lên, có chết thì chỉ mình tôi chết thôi, anh còn phải về chỉ huy đơn vị”. Anh ấy bảo: “Tớ đi với cậu từ đầu sao lại bỏ nhau được!”. Khi xe rồ ga, tôi vẫn còn nghe trong tiếng khóc của cô thanh niên xung phong: “Đừng đi các anh ơi!...”. Cứ 20 mét thanh niên xung phong họ cắm một lá cờ báo hiệu, đến chỗ quả bom có một lá cờ lớn hơn cắm ở đó. Khi bánh xe bên trái của tôi chạm bom, một tiếng nổ lớn hất tung cả xe và hai người chúng tôi xuống vực. Khi tôi tỉnh lại đã thấy thông đường, còn mình được các đồng đội đưa từ vực lên, máu chảy nhiều từ mồm, mũi, tai do sức ép của bom làm chấn thương sọ não. Phải nói là chúng tôi may mắn thoát chết trong gang tấc, lúc đó chẳng nghĩ gì nhiều đâu, chỉ nghĩ là nếu chết thì chỉ mình chết chứ không để tất cả đồng đội hy sinh uổng phí.

Tháng 3-1973, tôi được điều động vào miền Đông Nam Bộ tham gia vận chuyển hàng từ Campuchia về nước. Trên cung đường này kẻ xấu thường săn lùng, phục kích cướp vũ khí, hàng hóa của ta. Do vậy chúng tôi vừa làm nhiệm vụ vận chuyển, vừa chiến đấu. Có lần, xe bị hỏng giữa rừng cao su. Trong đêm tối, chúng tôi đã cố gắng hết mức nhưng không thể khắc phục được đành ngủ lại. Để bảo đảm an toàn, chúng tôi mắc võng trên ngọn cây cao su để ngủ, nhưng cả đêm không ngủ được bởi các loại thú rừng quấy rầy. Vì giữ bí mật nên súng đạn chúng tôi xếp ở dưới, bên trên là gạo, chắc thấy có mùi gạo nên thú rừng mò đến tìm kiếm thức ăn...

Sau ngày giải phóng, tôi được điều động làm Tiểu đội trưởng Tiểu đội Lái xe (thuộc Trung đội 2, Đại đội 23, Tiểu đoàn 80, Cục Hậu cần, Quân khu 7) với quân hàm Trung sĩ. Năm 1976, bố tôi mất, mẹ bị ốm nặng, tôi viết đơn xin xuất ngũ và được các anh chỉ huy nhất trí. Trong lúc chờ đợi để ra Bắc, tôi đi thăm anh em đồng đội xung quanh thành phố, thì cũng thời điểm này đài phát thanh thành phố đưa thông tin tôi được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân (cùng một quyết định phong tặng anh hùng với đồng chí Phạm Văn Trà, sau này là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng). Đơn vị cử người đi tìm và không đồng ý cho tôi xuất ngũ. Sau đó, tôi được đi học trở thành sĩ quan, làm Phó đại đội trưởng Đại đội 9, rồi Đại đội trưởng Đại đội 1 của Tiểu đoàn 80 làm nhiệm vụ giúp giải phóng nhân dân Campuchia khỏi họa diệt chủng. Năm 1979, khi đang tham gia khóa học văn hóa ở Vũng Tàu thì chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra. Tháng 9 năm đó, tôi được điều động ra Bắc làm nhiệm vụ chỉ huy vận tải ở Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 656, Đặc khu Quảng Ninh) phục vụ chiến tranh biên giới phía Bắc. Năm 1987, tôi được điều về làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn Vận tải 653 (Cục Hậu cần, Quân khu 3); năm 2000 được điều về làm Phó trưởng phòng Vận tải Quân khu 3; năm 2004 giữ chức Phó đoàn trưởng Đoàn Kinh tế-Quốc phòng 327 cho đến khi nghỉ hưu.

NHẬT MINH (Ghi theo lời kể của Anh hùng LLVT nhân dân Hoàng Đình Chiến)