Nhà thơ Phạm Tiến Duật

Nói đến văn học về đề tài chiến tranh cách mạng và người lính, nói về đội ngũ các nhà thơ thời kỳ chống Mỹ cứu nước không thể không nhắc tới ông. Và, nói tới đường Trường Sơn-đường Hồ Chí Minh huyền thoại trong những năm chiến tranh chưa xa hay nói về bộ đội Trường Sơn anh hùng hôm nay cũng không thể quên tên tuổi ông.

Ông là Phạm Tiến Duật-một “danh nhân Trường Sơn”, một “con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại”, một nhà thơ của Bộ đội Trường Sơn mà ai cũng biết. Ông không phải là người được biên chế ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội chỗ tôi làm việc, nhưng các nhà văn nhà thơ, kể cả bác bảo vệ, anh chiến sĩ công vụ, chị văn thư… ở đây luôn coi ông như người nhà giống y như nhà văn Đỗ Chu vậy. Hai ông – ông Pau-tốp-xki Bắc Ninh và ông Thi sĩ của Trường Sơn này có thể đến “nhà số 4” bất kể lúc nào; thậm chí nếu đến mà cổng khóa thì réo toáng tên những Lê Lựu, Nguyễn Đức Mậu, Trần Đăng Khoa… lên. Nhớ nhau thì đến thôi, nhiều khi chẳng bài vở thơ phú gì, đến uống với nhau chén trà, bắn điếu thuốc lào kể dăm ba câu chuyện chiến trường hôm xưa, viết lách hôm nay rồi đi; cũng có thể nằm lại nếu muốn.

Phạm Tiến Duật được bạn đọc biết tới sau khi đoạt giải nhất cuộc thi thơ do Báo Văn nghệ tổ chức năm 1969 với chùm thơ viết về Trường Sơn: Lửa đèn, Nhớ, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Gửi em cô thanh niên xung phong, sau đó là các tập thơ Vầng trăng quầng lửa (1970), Thơ một chặng đường (1971), Ở hai đầu núi (thơ 1981), Vầng trăng và những quầng lửa (thơ 1983), Thơ một chặng đường (thơ tuyển 1994), Nhóm lửa (thơ 1996), Tiếng bom và tiếng chuông chùa (trường ca 2000), Vừa làm vừa nghĩ (tiểu luận 2003)…

Thơ ông là cả một Trường Sơn thu nhỏ với những anh bộ đội lái xe quả cảm và vui tính: nhìn nhau mặt lấm cười ha ha (Bài thơ về tiểu đội xe không kính); những chiến sĩ công binh mở đường quả cảm: Những đồng chí công binh lầm lì/Mùi bộc phá trộn vào trong tiếng hát /Trên áo giáp lấm đầy đất cát/Lộp độp cơn mưa bi sắt đuối tầm (Vầng trăng và những quầng lửa); những cô gái thanh niên xung phong: “ngày em phá nhiều bom nổ chậm/đêm nằm mơ nói mớ vang nhà ”, nhưng vô cùng tinh nghịch, vô cùng lãng mạn và giàu nữ tính Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy nắng sớm/Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều (Gửi em cô thanh niên xung phong), những chiến sĩ cao xạ pháo luôn “nhằm thẳng quân thù mà bắn” cùng những người lính coi kho: Mười năm sống xa phố, xa làng/Tám năm ở trong núi trong hang/Tất cả riêng chung…/ Dành cho miền Nam tất cả (Tiếng cười của đồng chí coi kho)… Thơ ông là cả một Trường Sơn với đầy những lửa khói, chỗ nào cũng lửa, ở đâu cũng khói, bụi và bom (Vầng trăng và những quầng lửa, Lửa đèn, Tiếng bom ở Seng Phan, Nhóm lửa, Tắt lửa…), nhưng đó là lửa đi cùng với trăng sao, bom đạn đi cùng tiếng hát, tiếng cười. Thơ ông đưa chúng ta tới những “vùng rừng không dân” với rất nhiều hoa thơm cỏ lạ, rất nhiều chim thú quý: Cây cúc đắng quên lòng mình đang đắng, Cây bồng bênh cười vui suốt ngày, Cây nứa mọc đứng cây giang mọc bò, Dạ hương của đêm mắc cỡ của ngày, Nhựa vàng cây dọc nhựa đỏ cây nò … và cho ta biết: Đếm tiếng tắc kè/Biết mưa biết nắng/Biết ngọt rau sắng/Biết chát củ nâu/Biết thơm cỏ mật/Biết ngái rau bầu… Thơ ông cũng dẫn chúng ta về những làng Trường Sơn, làng bộ đội: Cũng vương tóc rối chân gà/Cũng tiếng chó sủa chiều tà sau cây/Cũng quần áo ướt phơi dây/Cũng gầu múc nước ô hay cũng làng. Đó là làng quân y “ lắm bồn hoa”, làng thông tin nhiều “bậc thềm nguy nga”, làng lái xe “sạp ngủ buông màn giữa trưa”, làng công binh “dựng trên nền sắt thép” và: Quanh năm như thể ngày mùa/Là làng của lính coi kho bốn bề/Suốt ngày vắng vẻ người đi/Mênh mang làng pháo bốn bề gió reo/Nhà chưa dựng võng đã treo/Bộ binh ở biết bao nhiêu vùng làng.

Với những bài thơ về Trường Sơn những năm chiến tranh vừa hiện thực sinh động vừa lãng mạn, có cả “quầng lửa” có cả “vầng trăng”, có bom rơi, có máu đổ nhưng cũng có tiếng hát tiếng cười của con trai con gái; có những người lính “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”, có những làng nữ Thanh niên xung phong “khăn xanh, khăn xanh phơi đầy nắng sớm”, có “những đoàn xe đi như không bao giờ hết ”… và có cả những “tiếng điếu cày rít lên thong thả” Phạm Tiến Duật đã trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất trong thế hệ các nhà thơ thời chống Mỹ, và như thế đương nhiên ông là nhà thơ tiêu biểu nhất của Bộ đội Trường Sơn. Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, người cũng có nhiều bài thơ hay viết về Trường Sơn bảo chính anh Duật là người đầu tiên đã đưa được cả Trường Sơn vào thơ, đưa được cả Trường Sơn đầy lửa khói bom đạn về thành phố, về Hà Nội, về Thủ đô. Nhà thơ Đỗ Trung Lai – một nhà thơ quân đội, bạn vong niên của nhà thơ Phạm Tiến Duật thì viết đại ý, thơ ông là cả một bảo tàng Trường Sơn thu nhỏ “di động” và “sinh động”, lại ao ước mai này trên con đường Trường Sơn huyền thoại năm xưa sẽ có những phố, những làng mang tên những danh nhân Trường Sơn như Võ Bẩm, Đồng Sĩ Nguyên, Phạm Tiến Duật…

Phạm Tiến Duật có 14 năm tại ngũ, trong đó có 8 năm gắn bó với Trường Sơn, với Đoàn 559. Đoạn thơ dưới đây của ông trích trong trường ca Những vùng rừng không dân nói ông và thế hệ ông đã để lại nơi này-rừng Trường Sơn “hầu hết tuổi thanh xuân”, đúng cả trăm phần, thế mà khi mới in ra tác giả của nó đã phải chịu lắm phiền hà; thậm chí còn đứng trước búa rìu của báo chí:

Đi trong rừng anh nói với em

Nói với những ai mai sau sẽ hỏi

Về những vùng rừng không dân

Nơi bao người đi qua hầu hết

tuổi thanh xuân

Để lại trong rừng những gì quý nhất

Mất mọi thứ để Nhân Dân không mất

Gắn bó cả tuổi xuân với Trường Sơn, với những người lính là thế trước sau ông vẫn là nhà thơ áo lính. Ông hay ghé “phố nhà binh” cũng là bởi ở đó ông có những người bạn thơ, những đồng đội thời Trường Sơn; ở đó có những tờ báo, tờ tạp chí, nhà xuất bản mà ông đã in những bài báo, bài thơ, cuốn sách đầu tiên. Ông vui cái vui của những người anh, người bạn còn đang khoác áo quân nhân, những nhà văn – chiến sĩ. Còn nhớ, năm 1987-năm Văn nghệ Quân đội kỷ niệm 40 năm ra số đầu tiên và được thưởng Huân chương Quân công, các nhà văn Dũng Hà (Phạm Điệng-Tổng biên tập), Hồ Phương, Xuân Thiều (Phó tổng biên tập) từ Thượng tá vinh thăng “một lèo” lên Đại tá, nhà thơ của Trường Sơn đã mang hoa đến chúc mừng đồng thời kèm theo mấy câu thơ: Nay mừng tạp chí được huân chương/Anh Thiều, anh Điệng với anh Phương/Thượng tá bỗng dưng thành Đại tá/… Cũng như khu phố đổi ra phường.

Nhà thơ Phạm Tiến Duật (thứ 2 từ bên phải) trong hội nghị mừng công chiến dịch mùa khô 1970-1971. Ảnh tư liệu

Phải là gần gũi, phải là thân thiết lắm mới “dám” mừng nhau kiểu ấy! Phạm Tiến Duật chơi với nhiều nhà văn ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nhưng thân hơn cả là Duy Khán, Lê Lựu và Nguyễn Đức Mậu… Năm ấy, Duy Khán ra Trường Sa biền biệt mấy tháng không về, nhớ bạn lắm nên tối hôm trước Duy Khán từ đảo về, sáng hôm sau Phạm Tiến Duật đã gõ cửa buồng. Hai ông chén tạc, chén thù đến khi say khướt, Duật mới lia bút làm mấy vần thơ tặng Khán như sau: Một nhà thơ đi bốn ngàn cây số biển/Về ở căn buồng sáu mét vuông/Ngày ngày đôi chén rượu suông/Văn chương đầy ắp căn buồng con con. Câu thơ ấy được viết hẳn lên bức tường căn buồng xép trên lầu 2 “nhà số 4”. Tiếc thay căn buồng Duy Khán ở ấy nay chẳng còn, nó và mấy vần thơ vui kia cũng giống như bản thảo tập bút ký viết về Trường Sa mang tên Biển thức chỉ còn trong kỷ niệm của bè bạn một thời! Hơn một năm sau ngày Duy Khán mất (1994), Phạm Tiến Duật có lần đến thăm Nguyễn Đức Mậu. Ông đứng ngẩn ngơ bên gốc hai cây đại già mắt đỏ hoe bảo bạn: “Hay hôm nay chúng mình làm giỗ cho Khán!”, nói rồi lại nức nở… Phạm Tiến Duật là vậy! Đa tài: làm thơ (là nhà thơ hàng đầu của thơ chống Mỹ), viết lý luận-phê bình (tác giả tập Vừa làm vừa nghĩ-Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam), làm báo (Tổng biên tập Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam), làm đối ngoại (Phó trưởng ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam), làm MC (dẫn chương trình Người cao tuổi của VTV cùng MC Ngọc Bích), nói chuyện Thơ…, nhưng rất dễ gần và hay mủi lòng như vậy.

Có những khi vui chuyện, ông nói, không có những năm ở Trường Sơn, không có Duật. Lại có nhà phê bình văn học khen thơ ông, cám ơn ông; nói chính ông và các nhà thơ thế hệ các ông đã làm nên một thời đại trong thơ ca Việt Nam. Nghe vậy Phạm Tiến Duật cười kể lại một câu chuyện vui. Ông bảo, khi nghe bài thơ Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây (được Hoàng Hiệp phổ nhạc thành bài hát cùng tên nổi tiếng) với những câu:

Trường Sơn Tây anh đi, thương em

Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo

Muỗi bay rừng già cho dài tay áo

Rau hết rồi, em có lấy măng không?

có người bảo cám ơn mình vì câu thơ “muỗi bay rừng già cho dài tay áo”, mình cười “Ô hay, sao lại cám ơn Duật? Phải cám ơn muỗi chứ!”.

Cho đến hôm nay bài hát Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây cùng với các bài hát Lá đỏ (Hoàng Hiệp phổ thơ Nguyễn Đình Thi), Đêm Trường Sơn nhớ Bác (Trần Chung phổ thơ Nguyễn Trung Thu), Bài ca Trường Sơn (Trần Chung phổ thơ Gia Dũng)… vẫn là những bài ca về Trường Sơn hay nhất, sống mãi với thời gian.

1959 – 2009, năm mươi năm Trường Sơn cũng là chẵn 50 năm có một đề tài Trường Sơn hiện hữu sáng ngời trong văn học, có một đội ngũ các nhà văn áo lính thế hệ sau nối thế hệ trước tâm huyết với đất và người Trường Sơn, gắn bó máu thịt với những trang viết về chiến tranh cách mạng và người lính. Đội ngũ nhà văn ấy, những trang viết ấy không chỉ góp phần làm phong phú thêm mà còn tạo nên nét độc đáo của văn học Việt Nam hiện đại. Phạm Tiến Duật là một gương mặt sáng trong đội ngũ ấy, và những trang thơ của ông đã góp phần không nhỏ làm nên diện mạo của văn chương nửa sau thế kỷ XX.

Thập Tam Trại, tháng 4 năm 2009

NGÔ VĨNH BÌNH