QĐND - Cụ Vũ Quang Triệu hiện ở phố Đội Cấn, Hà Nội. Vị đại lão tuổi 96 nguyên là Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Bộ Văn hóa-Thông tin. Cụ quê ở Hương Canh, Vĩnh Phúc, thuở nhỏ ra Hà Nội học, đỗ Tú tài Triết, Cách mạng Tháng Tám 1945, tham gia Việt Minh giành chính quyền ở Hà Nội. Nhân ngày giỗ lần thứ 50 của đồng chí Trần Quý Kiên (1966-2016), người mà gia đình cụ vẫn gọi là “ân nhân”, cụ đã kể câu chuyện dưới đây về quãng đời hoạt động cách mạng sôi nổi của đồng chí trong thời kỳ tiền khởi nghĩa ở Hà Nội…

Đồng chí Trần Quý Kiên trong thẻ tù của thực dân Pháp năm 1940. Ảnh tư liệu

Đồng chí Trần Quý Kiên thuộc thế hệ cách mạng tiền bối, mở đường cho lớp đàn em như cụ Triệu noi theo. Đồng chí đảm nhiệm Bí thư Thành ủy Hà Nội một giai đoạn ngắn, từ cuối năm 1938 đến tháng 9-1939. Đó lại là điểm nút của thời kỳ chuyển hướng chiến lược quan trọng của Đảng ta, từ hoạt động công khai, hợp pháp sang bí mật. Đồng chí đã góp phần giữ vững ngọn lửa cách mạng của các tầng lớp nhân dân Hà Nội trong những ngày tháng đấu tranh của cao trào 1936-1939. Ngọn lửa đó âm ỉ cháy mãi đến ngày toàn dân vùng lên giành chính quyền trong mùa Thu cách mạng năm 1945.

Thực ra, cụ Triệu chỉ được cùng làm việc với đồng chí Trần Quý Kiên một quãng thời gian ngắn, vào giai đoạn giữa của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đầu năm 1949, đồng chí Trần Quý Kiên là Trưởng ban Căn cứ địa Việt Bắc, đến giữa năm 1950 thì kiêm chức Bí thư Đảng ủy Khối cơ quan dân-chính-đảng Trung ương, đồng thời là Phó văn phòng Thủ tướng phủ (thời kỳ này Bác Hồ là Chủ tịch nước kiêm Thủ tướng). Nơi làm việc của Chính phủ kháng chiến nằm trong An toàn khu (ATK) trên đất Thái Nguyên. Đến giờ, cụ Triệu vẫn nhớ dáng vóc cao lớn, khuôn mặt vuông vức, tính cách bộc trực, thẳng thắn của người thủ trưởng cơ quan ATK ngày ấy. Quê gốc Trần Quý Kiên ở thôn Thượng Vũ, xã Nguyễn Huệ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông (cũ). Do nghèo đói mà cha mẹ ông sớm bỏ quê ra Hà Nội kiếm sống, gia đình thuê trọ ở nhà số 58 đường Yên Phụ (nay thuộc quận Ba Đình), Hà Nội. Chính tại căn nhà này vào giữa năm 1911, cậu bé Trần Quý Kiên ra đời, lớn lên đi hoạt động lấy tên khác là Đinh Xuân Nhạ. Khi Trần Quý Kiên học Trường Tiểu học Yên Phụ đã kết thân với một người bạn hơn tuổi là Nguyễn Đại Phát, được bạn giác ngộ, đưa vào tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Hà Nội từ rất sớm. Những năm 1925-1926, anh tham gia phong trào học sinh, sinh viên đòi ân xá cụ Phan Bội Châu và dự lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh. Anh bị buộc thôi học, đi làm thợ và tháng 5-1930 được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 11-10-1930, Trần Quý Kiên trực tiếp phụ trách một tổ tuyên truyền xung phong mang cờ, biểu ngữ đến treo trước cổng Trường Bách nghệ ở phố Ca-rô (nay là phố Lý Thường Kiệt). Nhằm lúc tan học, học sinh đổ ra đông, anh đã nhảy lên diễn thuyết và tung truyền đơn kêu gọi ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh. Ngay sau đó, anh bị địch bắt, kết án 5 năm tù giam ở Hỏa Lò, sau đày lên Sơn La. Đầu năm 1936, hết hạn tù, Trần Quý Kiên trở về Hà Nội tìm bắt liên lạc ngay với tổ chức. Đến tháng 10 năm ấy, tại một địa điểm ở Gia Lâm, đồng chí Nguyễn Văn Cừ chủ trì nhóm họp hội nghị, thành lập “Ủy ban sáng kiến”, như một ban cán sự của Xứ ủy Bắc Kỳ và Thành ủy Hà Nội khi chưa có đủ điều kiện để thành lập cấp ủy xứ và thành. Trần Quý Kiên đã tham gia ủy ban này. Tháng 3-1937, Xứ ủy Bắc Kỳ được tái lập, đồng chí được cử vào Xứ ủy và Thành ủy. Cuối năm 1938, đồng chí được cử làm Bí thư Thành ủy Hà Nội. Như vậy, ở thời kỳ tiền khởi nghĩa, Trần Quý Kiên là Bí thư thứ tư của Thành ủy Hà Nội, sau các đồng chí: Đỗ Ngọc Du (Bí thư Thành ủy lâm thời từ tháng 3 đến tháng 5-1930); hai Bí thư Thành ủy chính thức Nguyễn Ngọc Vũ và Lương Khánh Thiện.

Đại gia đình của cụ giáo Thao có 10 người con nhập ngũ sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 (ông Triệu đeo kính, đứng giữa). Ảnh do nhân vật cung cấp

Nhận trách nhiệm lãnh đạo Thành ủy Hà Nội giữa lúc phong trào cách mạng đang ở giai đoạn cuối của cuộc đấu tranh hợp pháp nửa công khai, đồng chí Trần Quý Kiên đã khéo lợi dụng thời kỳ “giao thời” ấy để tiếp tục duy trì, thúc đẩy một số cuộc đấu tranh, tập dượt quần chúng chuẩn bị bước vào một giai đoạn đấu tranh mới. Trong đấu tranh nghị trường, đồng chí và Thành ủy đã chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền tới các cử tri cho cuộc bầu cử Hội đồng thành phố ngày 5-4-1939. Những người do Mặt trận Dân chủ giới thiệu đã trúng cử với số phiếu cao hơn hẳn các đảng phái khác. Khi nhà cách mạng Phan Thanh bị bệnh qua đời, ngày 4-5-1939, Thành ủy Hà Nội đã huy động quần chúng với hơn 2 vạn người xếp hàng đi sau xe tang, trở thành một sự kiện gây chấn động, kẻ thù rất bực tức, lo sợ mà không có cớ gì để đàn áp. Cũng bằng cách đó, Thành ủy Hà Nội do đồng chí Trần Quý Kiên đứng đầu lại có cuộc biểu dương lực lượng của quần chúng nhân ngày Quốc khánh Pháp 14-7 và cuộc vận động quần chúng phản đối bọn thực dân cùng tay sai muốn quay trở lại Hiệp ước 1884. Kết quả là đến tháng 8-1939, Bộ Thuộc địa Pháp đã phải hủy bỏ ý định trên. Thời kỳ này còn xuất hiện nhiều cuộc đấu tranh đòi tự do, dân chủ, đòi phòng thủ Đông Dương, chống phát xít, ủng hộ Liên bang Xô Viết, đuổi bọn Tờ-rốt-kít ra khỏi phong trào… Từ đầu năm đến tháng 6-1939, ở Hà Nội đã có 18 cuộc đình công, bãi thị, buộc giới chủ phải nhượng bộ một số yêu sách. Ngày 1-9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam đã hoàn toàn vứt bỏ “bàn tay nhung”, chìa ra “bàn tay sắt”, truy lùng rất gắt gao những người cộng sản trong phong trào dân chủ. Ngày 8-9-1939, Hội nghị Xứ ủy Bắc Kỳ họp tại làng Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc Hà Nội) dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, ra nghị quyết về việc Đảng rút vào hoạt động bí mật, bảo toàn lực lượng, chuyển hướng sang một thời kỳ đấu tranh mới. Chấp hành chỉ thị đó, Thành ủy Hà Nội mau chóng rút vào hoạt động bí mật. Đồng chí Trần Quý Kiên được Xứ ủy điều đi xây dựng căn cứ bí mật ở một số địa phương khác.

Cụ Triệu cho biết, sau khi thôi làm Bí thư Thành ủy Hà Nội, đầu năm 1940, đồng chí Trần Quý Kiên bị địch bắt khi đang hoạt động gây cơ sở ở Bắc Giang và bị đày đi nhà tù Sơn La lần thứ hai cho đến ngày Cách mạng Tháng Tám thành công. Khi hòa bình lập lại trên miền Bắc, đồng chí được cử giữ chức Thứ trưởng, Bí thư Đảng đoàn Bộ Thủy lợi. Đồng chí bị bệnh, qua đời ngày 9-8-1966, khi mới 55 tuổi đời.

Riêng với gia đình cụ Triệu, đồng chí là “ân nhân”, do có một sự việc liên quan hồi cụ cùng công tác tại ATK. Thân phụ của cụ Triệu là cụ giáo Thao, ở quê, cuối năm 1953 bị Đội Cải cách ruộng đất quy địa chủ-Quốc dân đảng, bị bắt giam và có khả năng phải chịu mức án cao nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Phạm Văn Đồng biết chuyện đã cử đồng chí Trần Quý Kiên trực tiếp về địa phương điều tra cụ thể sự việc. Với tác phong cụ thể, sâu sát và khẩn trương để cứu một mạng người, đồng chí đã nhanh chóng minh oan cho thân phụ của cụ Triệu. Trong đợt sửa sai đầu tiên, thân phụ và gia đình cụ đã được phục hồi mọi danh dự, quyền lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng nhất cho thân phụ cụ vì “có 10 người con tòng quân”. Sau này, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tặng gia đình cụ Bằng có công với nước vì “đã tích cực giúp đỡ và bảo vệ cách mạng, góp phần vào thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám”.


PHẠM QUANG ĐẨU