Trung tá, cựu chiến binh (CCB) Võ Thành Trung là người trực tiếp gắn bó với vùng đất Nam Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ông am hiểu tường tận nhiều sự kiện lịch sử diễn ra trong thời kỳ này. Ông nhớ lại: “Từ sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ta chủ trương tổ chức lực lượng pháo binh nữ ở các quân khu. Ngày 11-11-1968, Đội nữ pháo binh Quân khu 10, mật danh B11 ra đời. Đội gồm 34 chị em được chọn từ nhiều cơ quan, đơn vị về; tuổi đời mười tám, đôi mươi, đến từ nhiều địa phương, như Bình Dương, Phước Long, Bình Thuận, Biên Hòa, Sài Gòn… Quân y sĩ Phạm Thanh Men (Bảy Men) quê ở xã Bình Hưng Hòa, quận Tân Bình (cũ) được cử làm đội trưởng. Chị Nguyễn Thị Tuyết, nhà ở gần mạn cầu Tham Lương, Tân Bình, là chính trị viên. Khi về đội, hầu hết các nữ pháo thủ chưa hề quen biết nhau, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, các chị đã mau chóng hòa nhập và gắn bó”.

Bà Bảy Men tiếp lời: “Ngay sau khi B11 ra đời, Đảng ủy-Bộ chỉ huy T10, cùng các cơ quan quân khu tạo mọi điều kiện giúp đơn vị mau chóng ổn định tổ chức và đi vào hoạt động. Trong số cán bộ tham mưu được quân khu cử xuống huấn luyện cho chị em cách đánh bộ binh và sử dụng cối 82mm có anh Mười Trung. Anh bày chiến thuật đánh tập trung, rồi đánh phân tán; phương cách đào công sự và bắn máy bay. Bất chấp bom pháo địch, dẫu hằng ngày chủ yếu phải ăn rau rừng, củ nần, lá bép… thay cơm, song chị em vẫn không hề nao núng, lòng tràn đầy quyết tâm được đánh giặc, góp phần giải phóng quê hương.

leftcenterrightdel

Một đội nữ pháo binh trên chiến trường miền Đông Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Toàn đội vừa học tập, vừa đi tải lương thực, vũ khí, đạn dược từ biên giới Campuchia về, để kịp tham gia chiến đấu. Vào đợt hoạt động xuân-hè 1969, Quân khu 10 có kế hoạch bóc gỡ hệ thống đồn bốt của địch; tiến hành bao vây các chi khu Bù Đăng, Bù Đốp và yếu khu Bù Na; đồng thời uy hiếp chi khu Phước Bình và tiểu khu Phước Long. Với khí thế ra quân trận đầu, ngày 16-2-1969, đội nữ pháo binh hành quân đến vị trí tập kết. B11 yểm trợ cho Đại đội Đặc công và Đại đội 54 Bộ binh, phối hợp với các đơn vị bạn đánh vào chi khu và sân bay Phước Bình đêm 22-2. Mặc dù địch phản pháo ác liệt vào trận địa, song các nữ pháo thủ vẫn kiên cường trụ bám, đánh quân cứu viện.

Đêm 24-3-1969, ta đồng loạt nổ súng tấn công tiểu khu Phước Long, nhiều mũi thọc sâu nhắm vào các vị trí trọng yếu ở nội thị. B11 nhận nhiệm vụ nã đạn vào tòa hành chính Phước Long. Trận địa cối 82mm đặt trên ngọn đồi ở Đăk Son, cách mục tiêu chừng 700m về hướng đông nam thị xã. Nhờ bố trí ở vị trí cao, quan sát rõ, lại được chuẩn bị kỹ càng, nên ngay từ loạt đạn đầu, các nữ pháo thủ đã bắn sập một góc tòa nhà. B11 đã chi viện có hiệu quả cho các đơn vị bạn đánh chiếm mục tiêu bên trong thị xã.

Đến ngày thứ ba, địch phát hiện được trận địa của ta. Chúng huy động nhiều máy bay cùng các pháo đội quanh vùng, dồn dập phản kích, hòng nhổ phăng cái “gai nhọn”. Toàn đội vẫn ngoan cường bám trận địa chiến đấu. Xung quanh, cây cối gãy đổ ngổn ngang, trơ trụi; hầm hào công sự bị bung nắp. Nữ chiến sĩ Nguyễn Thị Dân và anh Quế, người dẫn đường, hy sinh; các chị Trần Thị Hương, Cao Thị Lý bị thương. Trận đánh càng lúc càng ác liệt. Tôi liền cho hai tổ trinh sát dùng súng bộ binh bắn trả máy bay địch. Liền đó, chị Trần Thị Đông và tôi bị thương. Trước hỏa lực dữ dội của phi pháo địch, toàn đội phải rút lui. Chính trị viên Nguyễn Thị Tuyết thay tôi, tiếp tục chỉ huy đơn vị, đưa đồng đội hy sinh và bị thương lui về hậu cứ.

Qua hai trận chiến đấu, B11 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Bộ chỉ huy Miền tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba, được quân khu tặng bằng khen; nhiều chị em được tặng danh hiệu dũng sĩ và bằng khen, giấy khen”.

leftcenterrightdel

Phạm Thanh Men, đội trưởng đầu tiên của B11. Ảnh tư liệu

Đầu năm 1970, chiến trường trọng điểm của T10 chuyển hướng từ Phước Long ra Quảng Đức. Lúc này, Đội nữ pháo binh do chị Nguyễn Thị Bưởi làm đội trưởng, chị Nguyễn Thị Tuyết vẫn là chính trị viên; đơn vị đặt dưới sự chỉ huy của K50 (Tiền phương của Quân khu 10). Sau trận phối hợp chiến đấu với bộ binh ở khu vực Bù Xo-Kiến Đức, B11 tiếp tục đi tải lương thực, vũ khí... Dẫu “chân yếu, tay mềm”, các chị vẫn không quản ngại đường xa, phấn đấu thực hiện đúng kế hoạch trên giao. Có chị gùi tới 50-60kg hàng một chuyến.

Bấy giờ, Quảng Đức là một chiến trường mới, rất ngặt nghèo về bảo đảm hậu cần. Tới nơi, không kịp nghỉ ngơi, B11 bước vào chiến đấu ngay. Để tạo được thế trụ lại, đánh địch trong thị xã Gia Nghĩa, ngoài súng đạn và lương thực, chị em còn phải mang theo một số đà gỗ để làm công sự chiến đấu.

Đây là một trận đánh lớn, phối hợp với cao điểm toàn Miền. Lực lượng tham chiến gồm có Tiểu đoàn 212 chủ lực quân khu, Đại đội 11 và Đại đội 13 Đặc công, B11 và lực lượng tại chỗ của tỉnh Quảng Đức. Đêm 29, rạng ngày 30-3-1970, ta đồng loạt nổ súng đánh chiếm các mục tiêu đã định. B11 phối thuộc với Tiểu đoàn 212, cùng Khẩu đội cối 82mm của Đại đội 14, bắn chế áp trận địa pháo tiểu khu. Tuy nhiên, do Đại đội 14 bị lạc không đến được vị trí chiến đấu, nên B11 phải độc lập tác chiến, chi viện đắc lực cho bộ binh và đặc công phát triển vào tung thâm.

Hôm sau, địch dùng phi pháo và bộ binh có xe bọc thép yểm trợ, tổ chức nhiều đợt phản kích vào các vị trí quân ta chiếm giữ. B11 bắn chặn xe bọc thép ngay khi chúng vừa xuất phát. Đạn còn ít, chị em phải bắn dè sẻn và căn thật chuẩn theo lệnh của Sở chỉ huy tiền phương, cũng như sự điều chỉnh của đài quan sát. Những quả cối 82mm rót chính xác, hiệp sức cùng Tiểu đoàn 212 ngăn chặn và đẩy lùi các đợt phản kích điên cuồng của địch, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng một số đơn vị bảo an, dân vệ.

Hết đạn cối, toàn đội tiếp tế đạn dược cho bộ binh và đưa thương binh ra ngoài, chuyển về đội phẫu tiền phương. Sau 3 ngày đêm liên tục chiến đấu, sức khỏe các nữ pháo thủ đều đã giảm sút, nhưng với tinh thần thương yêu đồng đội, chị em vẫn tự nguyện đi tải thương. Trời đổ mưa, đường đất đỏ trơn trượt, các chị thay nhau người mang vác pháo, người tải thương. Có tấm tăng, dành để che thương binh; thân gái dầm mưa chịu lạnh. Dọc hành trình, quần áo ướt dính bết vào người, dưới chân có vô số vắt đất, trên cây thì nhan nhản vắt lá (loại vắt cắn không cầm được máu) tấn công. Mỗi khi gặp địch, chị em chủ động nổ súng, bảo vệ thương binh an toàn. Đến chỗ tạm dừng chân, còn ít gạo đem nấu cháo bón cho người bị thương. Các chị thay nhau đi hái lá bép, đào củ măng rừng luộc ăn thay cơm; đốt lửa hong quần áo… Bao cơ cực vẫn không cản nổi bước chân các nữ pháo thủ.

Cuối năm 1970, T10 chuyển hướng về thượng nguồn sông Đồng Nai, lực lượng vũ trang quân khu hoạt động phân tán, nhỏ lẻ. B11 tạm thời giải thể, một số chị em về lại đơn vị cũ hoặc chuyển đến bệnh xá, hay đội phẫu tiền phương; số còn lại xuống địa bàn cùng các mũi công tác củng cố phong trào, gây dựng cơ sở.

Để phục vụ Chiến dịch Nguyễn Huệ, ngày 8-3-1972, Đội nữ pháo binh được tái lập. Lúc này T10 giải thể. Tỉnh Quảng Đức chuyển về Quân khu 6, hai tỉnh Bình Long và Phước Long thành Phân khu Bình Phước. Gần hai năm xa đơn vị, chị em B11 ai cũng mong có ngày tái hợp để được tiếp tục tham gia chiến đấu. Vẫn là hầu hết những con người cũ, vẫn chiến trường xưa, nhưng giờ đây, đơn vị mang mật danh B83, lấy ý nghĩa Ngày Quốc tế Phụ nữ. Ban chỉ huy B83 do chị Nguyễn Thị Tuyết (biệt danh Tuyết “lồ ô”, quê Hàm Thuận, Bình Thuận) làm đội trưởng, chị Nguyễn Thị Huê là đội phó. Ngoài cối 82mm, đơn vị còn được trang bị thêm cối 81mm (thu được của địch), cùng với dàn H12 phóng rốc-két. Đội tham gia nhiều trận đánh, trong đó có trận Phước Bình, chi khu Bù Đốp, chi khu Lộc Ninh… lập được nhiều chiến công và được khen thưởng.

Kết thúc chiến tranh, toàn đội có 5 chị hy sinh. Đó là các liệt sĩ: Võ Thị Tuyết, Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Thị Dân, Huỳnh Thị Vân, Võ Thị Lý. Sau ngày đất nước thống nhất, nhiều cựu nữ pháo thủ vẫn tiếp tục cống hiến, công tác. Một số chị trở về quê làm ăn, sinh sống. Dù ở cương vị nào, các chị luôn giữ gìn vẹn nguyên phẩm chất của người chiến sĩ cách mạng, khắc phục khó khăn, vươn lên, xứng đáng là con cháu của Bà Trưng, Bà Triệu trong thời đại Hồ Chí Minh.     

NGUYỄN MINH NGỌC