QĐND - Trong thời kỳ đế quốc Mỹ ném bom miền Bắc, nhiều trại trẻ đã ra đời để tập trung nuôi dạy con em cán bộ cơ quan, đơn vị ở Hà Nội nơi sơ tán, tạo điều kiện cho bố mẹ các em yên tâm công tác. Trại trẻ của Tổng cục Chính trị mang tên Nguyễn Bá Ngọc-người anh hùng ở tuổi thiếu niên đã dũng cảm hy sinh cứu các em nhỏ trong lửa đạn, bom rơi là một trong những trại ra đời thời kỳ đó.

Trại trẻ Nguyễn Bá Ngọc những năm 1967-1968. Ảnh tư liệu.

Trại trẻ Nguyễn Bá Ngọc lúc mới thành lập là ở nhà xây, đặt ở một doanh trại quân đội thuộc Ba Vì, Sơn Tây. Sau chuyển lên Lạng Sơn, Thái Nguyên rồi về Cốc Trại (Kim Quan, Thạch Thất, Hà Tây, nay là Hà Nội). Thời kỳ Mỹ đánh phá ác liệt, ban ngày chúng tôi phải học trong lớp nửa chìm nửa nổi có đắp đất dày xung quanh. Mái lớp lợp bằng lá vách nhà thưng tre nứa. Chúng tôi cũng được học đàn, nhạc, bóng bàn. Nhà nghỉ có nơi dành cho nam riêng, nữ riêng. Giường được đan bằng tre nứa thành sạp dài hai bên. Cuối nhà có một phòng nhỏ kín đáo cho cô giáo. Chúng tôi ăn ở tập trung, sinh hoạt như bộ đội. Sáng dậy tập thể dục, vệ sinh cá nhân, ăn sáng, đi học. Trưa ăn cơm, ngủ trưa, chiều lên lớp tự học nhưng có cô (thường là bảo mẫu) trông coi. Hằng tuần đều có sinh hoạt, kiểm điểm, chấm thi đua. Cuối năm có giấy khen, phần thưởng như mọi học sinh ở các trường phổ thông khác nhưng còn có thêm những món quà thưởng rất bộ đội. Đến nay, tôi vẫn còn giữ được tấm chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh dệt bằng vải cùng phiếu khen thưởng “Cháu ngoan Bác Hồ”. Có thời gian chúng tôi còn được chia thành nhiều nhóm nhỏ đưa vào nhà dân, có lẽ trong mấy ngày thôi nhưng buổi trưa tụ tập nhau lại có đủ chuyện để nói. Mỗi nhà mỗi khác, bọn trẻ con chỉ chú ý những chuyện lạ, chuyện vui để kể cho bạn nghe.

Vì ở gần sông Tích Giang chúng tôi cũng được học bơi. Xuống sông thật thích nhưng cũng rất sợ, những đứa con gái nhát như tôi thì dù các cô chú nhiệt tình hướng dẫn đến đâu cũng không thể bơi được. Nhiều chuyện nghĩ lại thấy buồn cười và xấu hổ. Đợt đó, trại trẻ được bổ sung các cô bảo mẫu mới. Từ ngày đi sơ tán chúng tôi được nghe nhiều giọng nói khác nhau, có tiếng Nam, tiếng Bắc, nhưng thấy tiếng địa phương nặng, khó phân biệt thế. Thấy chú Kiêm đang hỏi chuyện các cô, mấy đứa nghe được chạy về khoe với bạn: Chúng mày ơi, cô ấy bảo rằng “Quê em ở “Gà toi”-Thực ra, cô nói là Hà Tây.

Trại trẻ Nguyễn Bá Ngọc có anh Thành Tổng phụ trách Đội Thiếu niên tiền phong là người miền Nam. Chúng tôi gọi anh vì anh quàng khăn đỏ, làm công tác Đội. Cô Trinh, ít tuổi hơn anh Thành nhưng làm bảo mẫu được chúng tôi gọi bằng cô. Cô rất xinh, khuôn mặt thanh tú, nói năng dịu dàng. Sau này về ở cùng Khu tập thể số 8 Lý Nam Đế, Hà Nội, chúng tôi vẫn quen gọi cách cũ, bị mẹ tôi nhắc nhở phải thay đổi xưng hô, gọi cô chú vừa thuận vừa tôn trọng. Đến khi về công tác tại Bảo tàng Quân đội (nay là Bảo tàng Lịch sử Quân sự), mỗi khi vào Tổng cục Chính trị gặp các cô chú từng ở trại trẻ, nhiều người cứ ngạc nhiên khi nghe cách gọi của tôi. Thực sự có cô còn rất trẻ, chắc hơn chúng tôi khoảng 7-10 tuổi. Bằng tuổi đó mà các cô đã từng chăm sóc, dạy dỗ chúng tôi những lúc khó khăn, gian khổ như những người mẹ thực thụ.

Đồng đội, đồng nghiệp ở cơ quan tôi nhiều lần thắc mắc khi gặp bạn cũ mà tôi nhắc là “Bạn chị hồi đi trại”. Có lẽ các em, các cháu sinh ra trong hòa bình không có khái niệm về trại trẻ sơ tán, chỉ biết trại cải tạo, trại tập trung… Trại trẻ thì có nhiều, tôi cũng đã từng ở trại trẻ của Cục Vận tải, Tổng cục Hậu cần một thời gian ngắn, nhưng trại trẻ Nguyễn Bá Ngọc của chúng tôi thực sự là một trường thiếu sinh quân dù chúng tôi không được mặc quân phục như các anh chị ở Trường Nguyễn Văn Trỗi. Sau này, nhiều bạn đi trại của tôi công tác trong quân đội, có người thành đạt, nổi tiếng, có những người bình thường, lặng lẽ... Nhưng dường như chúng tôi vẫn còn được sung sướng hơn nhiều người đã từng vất vả chăm sóc, dạy dỗ chúng tôi hồi đi trại. Khi đất nước hòa bình, trở về Hà Nội, nhiều cô giáo của chúng tôi vẫn còn không ít khó khăn, phải chịu nhiều thiệt thòi về chế độ, chính sách... 

 

 

NGUYỄN THỊ LÂM HÀ