Trước tình hình đó, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 3 Sao Vàng) thành lập một bộ phận do Phó chính ủy Lê Văn Quýt chỉ huy, gồm các đồng chí: Xích-Trưởng tiểu ban tác chiến; Minh-Trưởng tiểu ban tổ chức; 1 trinh sát, 1 liên lạc, 1 thông tin máy PRC25 thực hiện nhiệm vụ gọi tàu địch quy hàng.

Sáng 2-5-1975, ngoài khơi vùng biển Vũng Tàu, nhiều chiếc tàu thủy của hải quân Việt Nam cộng hòa vẫn chạy từ Bãi Trước ra Bãi Sau và ngược lại. Lê Văn Quýt ra lệnh cho đồng chí thông tin 2W dò tìm sóng vô tuyến tàu địch, đồng thời chỉ thị cho Tiểu đoàn Bộ binh 2 triển khai hỏa lực đại liên, súng cối, ĐKZ lấy phần tử bắn là các tàu địch, sẵn sàng chờ lệnh.

“Hà Nội gọi Sài Gòn! Hà Nội gọi Sài Gòn, nghe rõ không, trả lời?”-Tiếng đồng chí thông tin vô tuyến liên tục gọi trên máy, dò hết sóng này đến sóng khác nhưng vẫn không thấy trả lời. Đến khoảng 15 giờ ngày 2-5-1975, bỗng có tiếng trả lời trong máy “Sài Gòn gặp Hà Nội! Sài Gòn gặp Hà Nội!”. Đồng chí thông tin phấn khởi đưa máy cho chỉ huy. Lê Văn Quýt nói: “Hà Nội đây, nghe rõ!”. Một giọng khàn khàn tiếng Nam Bộ khó nghe: “Sài Gòn ở ngoài khơi xin vào bờ. Đề nghị Quân Giải phóng đừng bắn”. Biết mình dùng tiếng Quảng Trị khó nghe, Lê Văn Quýt nói chậm rãi: “Các anh yên tâm, hãy cắm cờ trắng hoặc vải trắng lên tàu. Bắn lên trời một phát pháo hiệu màu xanh. Khi chúng tôi bắn lên phát pháo hiệu màu đỏ thì cho tàu đi vào. Chúng tôi sẽ tiếp nhận tại bờ biển Bãi Trước”.

leftcenterrightdel
Trung đoàn 2, Sư đoàn 3 Sao Vàng bắt tàu cần cẩu cỡ lớn của hải quân quân đội Sài Gòn dẫn về Bãi Trước, Vũng Tàu. Ảnh: Từ Diễn 
Một lát sau, từ ngoài khơi Bãi Trước xuất hiện 2 vạch sáng xanh vút lên trời. Đồng chí liên lạc lập tức bắn 2 phát pháo hiệu đỏ. Màn đêm đã bắt đầu buông xuống làm nổi rõ những luồng ánh sáng đèn pha của 2 chiếc chiến hạm lù lù tiến vào bờ. Khi 2 chiếc tàu song song áp sát bãi biển, đồng chí Xích dùng loa ra lệnh: “Tất cả bỏ hết súng đạn tại tàu, từng người một giơ cao 2 tay, thứ tự theo cầu thang lên bờ!”. Khoảng 300 quân trên 2 chiếc tàu được tập trung theo sự hướng dẫn của chiến sĩ ta. Trông họ thật thảm hại, có tên đi liêu xiêu, có tên phải dìu vì mấy ngày qua không có ăn. Đói và khát hành hạ đến kiệt sức. Lê Văn Quýt báo cáo về Ban chỉ huy Trung đoàn 2 đề nghị cho đem gạo, thực phẩm và cử các đồng chí quân y tới cấp cứu cho những người suy kiệt nặng. Đồng thời cho người đi vận động nhân dân xung quanh đến giúp đỡ họ nấu ăn. Trước những việc làm ấy, các viên chỉ huy tàu cảm kích nói, đại ý: Cảm ơn các ông, các ông rất cao thượng. Các ông chiến thắng là đúng. Lê Văn Quýt trả lời: “Đó là bản chất của Quân Giải phóng. Các anh không phải cảm ơn, chúng ta đều là người Việt Nam”.

Ngay đêm đó, sau khi đã được ăn uống đầy đủ, Tổ công tác phân loại sĩ quan riêng, binh lính riêng và dẫn giải về phía sau, bàn giao cho Ủy ban Quân quản thị xã Vũng Tàu.

Đêm khuya, phát hiện ở ngoài khơi phía đông nam Bãi Trước một vùng sáng nhấp nhô không di chuyển. Có người cho đó là Hạm đội 7 của Mỹ, có người cho là chiếc tàu cỡ lớn. Đồng chí thông tin 2W lại tiếp tục làm việc, gọi suốt cả đêm tới sáng 3-5-1975 vẫn không nhận được tín hiệu trả lời. Khi mặt trời lên cao, khối thép đồ sộ của chiếc tàu phản chiếu thành những tia sáng chói mắt. Mọi người khẳng định, đó là một chiếc tàu lớn nhưng không rõ tàu gì. Lê Văn Quýt cho người đi tìm hiểu trong số hàng binh của hải quân ngụy và được biết, đó là chiếc tàu cần cẩu do Mỹ viện trợ cho hải quân ngụy Sài Gòn, dùng để chở xe tăng và pháo hạng nặng từ Hạm đội 7 vào hoặc chở qua Phi-líp-pin sửa chữa.

Biết chắc tàu cỡ lớn của địch nhưng không bắt được liên lạc, có uẩn khúc gì đây? Phải chăng chúng không chịu đầu hàng? Chúng đang chờ một sự chi viện nào từ bên ngoài để chiếm lại Vũng Tàu? Sau khi họp bàn, phân tích phía địch-ta, Lê Văn Quýt quyết định đưa lực lượng ra khơi để bắt chiếc tàu đó đầu hàng và dẫn vào bờ.

Một loạt công việc được triển khai gấp: Đồng chí Xích và đồng chí trinh sát đi tìm người hoa tiêu, đồng chí Nhỉ (Phó chủ nhiệm Chính trị trung đoàn) và một đồng chí liên lạc đi tìm thuyền máy, Lê Văn Quýt và đồng chí Minh đến Tiểu đoàn 2 tổ chức lực lượng chiến đấu, gồm một tổ xung kích có 2 khẩu AK, một khẩu B40, một máy bộ đàm PRC25; cử thêm một số cán bộ cơ quan trung đoàn do đồng chí Nguyễn Tiến Đích, trợ lý tuyên truyền đi theo làm công tác binh vận. Nhà văn Nguyễn Trí Huân và nhà báo Từ Diễn của Khu 5 cũng xung phong đi.

Khoảng 12 giờ ngày 3-5-1975, tất cả tập trung tại Bãi Trước. Người hoa tiêu, nguyên là lính hoa tiêu của hải quân ngụy Sài Gòn. Anh ta phán đoán, chiếc tàu cần cẩu cách bờ 4km, có thể bị hỏng hoặc thiếu dầu, thiếu lương thực nên phải nằm lại. Bác lái thuyền là chủ chiếc thuyền xung phong phục vụ Quân Giải phóng. Sau khi quán triệt nhiệm vụ cho từng bộ phận, đồng chí Xích làm công tác hiệp đồng giữa bộ phận xung kích và lực lượng trên bờ. Tất cả phấn khởi lên thuyền ra khơi. Đầu mũi thuyền cắm một lá cờ Mặt trận khá to. Chiếc thuyền lao nhanh về phía biển dưới bầu trời trong xanh đầy nắng.

Bộ phận chỉ huy trên bờ mở máy bộ đàm liên tục để liên lạc. Nếu địch trên tàu chống cự, bộ đội không tiếp cận được tàu thì phải có lực lượng chi viện ngay. Bởi vậy phải tổ chức thêm 2 tổ xung kích và 2 chiếc thuyền máy nữa sẵn sàng chờ lệnh, đồng thời báo cáo về Sở chỉ huy trung đoàn chuẩn bị hỏa lực tầm xa…

Từ vị trí chỉ huy nhìn qua ống nhòm, chiếc thuyền của tổ xung kích xa dần, nhỏ dần rồi mất hút… Một lát sau, tổ xung kích báo cáo đã nhìn thấy chiếc tàu có chiếc cần cẩu to. Tiếp đó lại báo cáo, chiếc tàu dài và rộng, trên đó, qua ống nhòm thấy có nhiều người dân, không thấy sắc phục lính, không thấy xe tăng, đại bác… Lê Văn Quýt nhắc nhở phải cảnh giác lúc áp sát tàu địch và không được có biểu hiện gì làm cho dân sợ hãi, dùng loa điện cầm tay nói với bà con rằng, Quân Giải phóng ra cứu họ. Thuyền máy của tổ xung kích đến gần chiếc tàu, người dân trên boong xôn xao. Thành tàu cao hàng chục mét, một số người thả thang dây cho bộ đội ta lên. Việc đầu tiên của tổ xung kích là giải thích cho đồng bào các chính sách của Mặt trận và nói rõ nhiệm vụ của Quân Giải phóng là giải cứu đồng bào, ổn định tinh thần cho bà con.

Thấy nét mặt hiền lành và cử chỉ, hành động thân ái của anh em ta đối với các em bé, các bà mẹ, các chị bị đói kiệt sức, mọi người bắt đầu tỏ rõ niềm tin, kể cho chiến sĩ ta về những đói khát mấy ngày nay. Có một em bé đã chết, người mẹ trẻ đang ôm xác con trên tay khóc nức nở. Một số em bé khác và những cụ già đói khát lả người nằm im lìm trên đống quần áo, nói không ra tiếng. Có người vừa kể vừa khóc, nói tiếng được tiếng mất vì quá khô môi, khô họng. Họ kể rằng, khi Quân Giải phóng chiếm thị xã Bà Rịa, bọn ngụy quyền Sài Gòn tung tin khắp nơi, nếu ai ở lại sẽ bị cộng sản giết hết, thế là nhân dân chạy dồn về Vũng Tàu, chen nhau lên tàu thủy ra khơi tránh nạn. Quân Giải phóng đánh nhanh quá nên không ai kịp mang theo thứ gì, chỉ lo thoát thân. Họ hy vọng ra khơi sẽ có tàu của Mỹ cứu giúp.

Anh em ta sục xuống khoang máy, thấy có 12 thủy thủ và 1 trưởng tàu; vài khẩu súng cạc-bin treo trên tường. Thủy thủ không mặc sắc phục hải quân. Hỏi ra mới biết, tàu hết dầu, dân ào lên hỗn độn, không có lương thực, nước uống, ai cũng nghĩ chờ chết.

Qua kiểm tra, tổ xung kích điện về, trên tàu có 120 người, không kể thủy thủ, cần được cấp cứu. Ban chỉ huy hội ý và quyết định cử người ra Bãi Sau vận động nhân dân dùng thuyền máy mang nước uống, cơm, cháo, đường, sữa ra tàu cần cẩu; điện cho Tổ xung kích chiếm giữ tàu, cho hoa tiêu, thuyền trưởng chở những người nguy ngập cần cấp cứu vào bờ.

Một lát sau, nhân dân kéo ra Bãi Trước đông đúc nhìn ra phía biển. Một số thuyền máy theo chỉ dẫn của bộ đội, cắm cờ Mặt trận, lần lượt lướt sóng ra phía con tàu. Trưởng tàu cần cẩu vào bờ, Lê Văn Quýt cử người dẫn đến kho xăng (do Tiểu đoàn 3 chiếm giữ) để lấy dầu.

Theo thời gian, các thuyền máy ra khơi đã chở đồng bào vào Bãi Trước. Ở đó, rất đông bà con chờ đón, dùng mọi phương tiện chở về nhà hoặc bệnh viện. Nhiều người nói: Không có Quân Giải phóng ra kịp thì các em bé và người già đã chết hết. Bộ đội Giải phóng đã sinh ra họ lần thứ hai.

Nhận được dầu, chỉ sau 3 tiếng đồng hồ, chiếc tàu cần cẩu đã cập vào chỗ nước sâu ở Bãi Trước, cách bờ khoảng 500m. Trung đoàn 2 tổ chức lực lượng ra tiếp quản, đồng thời báo cáo về Bộ tư lệnh Sư đoàn 3 Sao Vàng. Mấy hôm sau, chiếc tàu cần cẩu được sư đoàn điều động vào phục vụ việc sửa chữa và bắc cầu phao ở cầu Cỏ May, nối lại bờ vui cho nhân dân trở về xây dựng lại quê hương Vũng Tàu tươi đẹp.

 (*) Theo lời kể của Đại tá Lê Văn Quýt, nguyên Phó chính ủy Trung đoàn 2, Sư đoàn 3 Sao Vàng

Nguyễn Văn Tích(*)