Hiệp định Paris có hiệu lực nhưng ngày 30-1-1973, tiểu đoàn 101 ngụy (biệt hiệu Xà Vương) thuộc địa phương quân Quảng Ngãi với gần 200 tên, có nhiều xe tăng, xe bọc thép M-113 và pháo lớn yểm trợ, đã trắng trợn phá hoại hiệp định, đánh chiếm chốt Quán Hồng của ta ở xã Đức Phong, huyện Mộ Đức, làm 17 cán bộ, chiến sĩ ta hy sinh.
Ngày 10-2-1973, Khẩu đội 1-cối 82mm (tăng cường 13 chiến sĩ trong đội hình Đại đội 17 hỏa lực của Trung đoàn 1, Sư đoàn 2, Quân khu 5) lập chốt cách cầu 18 thước 150m về phía nam, làm nhiệm vụ hỗ trợ cho Tiểu đoàn 1 cùng các đơn vị khác của Trung đoàn 1 đang chốt giữ dọc Đường 1A thuộc xã Đức Lân và Đức Phong, ngăn chặn đối phương lấn chiếm vùng giải phóng.
Lúc 3 giờ, Khẩu đội phó Phạm Đa Hòa phát hiện ở phía đông, cách trận địa khoảng 200m có những tiếng rít của bánh xe xích và ánh đèn pin lấp loáng, biểu hiện đối phương đang tập hợp lực lượng. Anh báo cáo ngay với Trung đội trưởng Nguyễn Như Cường. Khoảng hai giờ sau, bộ đội đang ngụy trang trận địa thì từ phía ánh đèn pin lúc trước, quân ngụy có xe tăng và xe bọc thép M-113 yểm trợ, rầm rập kéo đến dàn hàng ngang, đối diện với trận địa của Khẩu đội 1 qua khu ruộng hình chữ nhật. Đại đội trưởng Nguyễn Văn Kình hô: “Chuẩn bị chiến đấu! Không ai được bắn, chờ súng cối bắn trước!”. Cơ hội “rửa hận Quán Hồng”, trả thù cho đồng đội đang hiện hữu...
Địch hùng hổ tràn sang. Khi chúng còn cách đường sắt chừng 60m, Đại đội trưởng Kình phát lệnh khai hỏa. Bộ ba pháo thủ: Trần Thắng Lợi, Lê Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Ký dồn dập giội đạn cối 82mm về phía địch. Chúng khiếp đảm đạp lên nhau tìm đường chạy lui. Số còn lại, cố sống cố chết, bắn xối xả về phía quân ta. Các pháo thủ của ta mặt như đanh lại, trút căm thù vào quả đạn cối thứ 60 (quả đạn cuối cùng). Quả đạn cối cuối cùng này bay đi và đã góp phần tiêu diệt 56 tên địch. Lệnh rút lui để bảo toàn lực lượng được phát ra.
    |
 |
Cựu chiến binh Nguyễn Đình Rồng (thứ hai, từ phải sang) kể về trận chiến đấu ở cầu 18 thước. |
Tuy nhiên, tổ hỏa lực gồm: Nguyễn Đình Chuẩn, Nguyễn Đình Rồng, Đỗ Văn Tuấn ở cùng một hầm sát chỗ đạn cối rơi tập trung nhất, không nghe được lệnh rút lui nên vẫn cố thủ trận địa. Khi tiếng léo nhéo ở bên ngoài vách hầm vọng vào, Rồng nhìn ra, thấy hai lính ngụy mặc đồ phòng hóa đi từ phía nam (Thạch Trụ) lên. Bọn này chuyên bắn đạn hóa học, làm cho quân ta trúng độc mà ngất đi để chúng bắt sống. Còn cách cửa hầm của Rồng chừng 15m, hai tên lính dừng lại rồi quay về lối cũ. Chúng nghĩ là quân ta đã rút hết nên không bắn nữa.
Rồng bí mật quan sát, thấy lính ngụy đứng lố nhố trên nóc một chiếc xe M-113 đang cắm đầu vào góc ruộng, gần vách hầm của các anh. Chúng hét lên: “Việt cộng chạy hết rồi!”... Rồng hiểu ra rằng, cả Khẩu đội 1 chỉ còn 3 anh em sót lại đây. Anh nghĩ ngay phương án đối phó. Trước hết là chuẩn bị lựu đạn...
Bỗng nghe tiếng lính ngụy thảng thốt: “Ba lô cóc!”. Liền đó, một quả lựu đạn M-26 bay vào hầm, chạm báng súng B40, kêu “cạch” khô khốc. Nhanh hơn cắt, Tuấn nhặt quả M-26 vứt ra ngoài. Và Rồng, mỗi tay cầm một lựu đạn chày, hạ lệnh: “Ngay sau khi tôi ném hai quả này vào xe M-113 thì tất cả cùng thoát ra khỏi hầm”. Rồi không chần chừ, tay phải Rồng kẹp chặt hai quả lựu đạn, tay trái giật nụ xòe, miệng đếm thời gian (theo khoảng giây đồng hồ) “một-hai-ba-bốn” vừa dứt, hai quả lựu đạn bay trúng đích, phá nát chiếc M-113, tiêu diệt tốp lính ngụy đứng trên xe.
Giữa mù mịt khói khét lẹt và những làn đạn địch dưới ruộng bay lên, từ cửa hầm, Chuẩn nhảy hướng nam, bị trúng đạn, hy sinh. Tuấn nhảy hướng tây, nhanh chóng ẩn vào bụi cây che khuất. Rồng xách súng B40 nhảy xuống vị trí chiếc M-113 rồi lách qua những lùm dứa dại, vòng về hầm Trung đội trưởng Cường. Không thấy ai, anh men theo bờ suối để thoát ra. Đôi bàn chân đau rát, dò dẫm bước chồng lên các vết chân trâu bò để tránh mìn...
Sẩm tối, Rồng về đến điểm hẹn tập kết. Gặp các anh em, xen vào nỗi mừng chiến thắng là tiếc thương các chiến sĩ: Nguyễn Đình Chuẩn, Phạm Đa Hòa, Doãn Đình Sắc đã hy sinh.
Sau khi trận đánh kết thúc, với sự phối hợp của đơn vị và cơ sở cách mạng địa phương, thi thể các liệt sĩ đã được mai táng cẩn thận. Hòa bình, đồng đội và gia đình đã đưa các anh về quê mẹ. Tháng 9-1976, đảng viên, thương binh Nguyễn Đình Rồng phục viên. “Từ đó cho đến bây giờ, ngày mồng 8 Tết (năm đó là ngày 10-2-1973) anh em trong Khẩu đội 1 lại tới nhà tôi để cùng làm lễ tưởng nhớ 3 đồng đội hy sinh trong trận đánh “rửa hận Quán Hồng” lịch sử”, CCB Nguyễn Đình Rồng cho biết.
Bài và ảnh: PHẠM XƯỞNG