Sau nhiều tháng hành quân từ miền Bắc vào chiến trường, đến tháng 3-1974, chúng tôi có mặt trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Vừa đến nơi được ít ngày, tôi được giao nhiệm vụ lên chốt Đại đội 6 (Tiểu đoàn 8) để bảo đảm thông tin thay đồng chí Cách đang bị sốt rét. Vì cùng trung đội nên trước khi lên chốt, tôi qua hầm thăm Cách. Cách nằm trên võng run bần bật, bao nhiêu quần áo, chăn màn quấn quanh người mà vẫn kêu rét.
Mang theo quân tư trang dã chiến gọn nhẹ, tôi được một anh nuôi quân thuộc Đại đội 6 dẫn lên chốt. Đi một đoạn, anh dặn tôi: “Khu vực này gài rất nhiều lựu đạn, cậu phải bước theo bước chân của tớ, trùng khớp vào, tuyệt đối không được chệch, chệch là chết cả lũ đấy”. Nghe anh nói vậy, tôi cảm thấy rợn người nhưng vẫn cố tỏ ra bình tĩnh...
Đến chân một quả đồi thấp, anh nuôi quân bảo tôi dừng lại để anh lên phía trước bắt liên lạc với người trên chốt. Một lúc sau, có người xuống đón chúng tôi lên hầm chỉ huy Đại đội 6. Tại đây, tôi gặp anh Đinh, Tiểu đội phó Tiểu đội Thông tin vô tuyến điện đang trực máy. Thấy có người mới, anh Đinh rút trong túi áo ra mẩu thuốc lá đã hút dở châm lửa đưa cho tôi, hỏi: “Mới từ Bắc vào hả?”. Tôi thấy bất ngờ nên hỏi lại: “Sao anh biết ạ?”. Anh Đinh cười nói: “Lính mới các cậu nước da trắng hồng, quần áo sạch sẽ chứ còn như bọn tớ thằng nào cũng bị sốt rét, da, môi thâm tái; nhiều tuần nằm chốt không tắm giặt nên quần áo nhàu rách, hôi xình”. Trò chuyện với anh Đinh, tôi biết được anh là người dân tộc Tày, quê ở Cao Bằng. Anh Đinh hơn tôi một tuổi nhưng đã có hai năm kinh nghiệm chiến đấu trên chiến trường. Anh Đinh chiến đấu rất “lỳ” và vừa được kết nạp Đảng.
    |
 |
Cựu chiến binh Cao Phương Giang (ngoài cùng, bên phải) gặp lại đồng đội từng tham gia giữ chốt, năm 2014. Ảnh do nhân vật cung cấp |
Điểm chốt này nằm trong một cái rẫy bỏ hoang của đồng bào, xung quanh trống trải, may mà có sẵn hệ thống công sự và cách hầm chỉ huy đại đội khoảng 100m. Chập tối, tôi bò ra điểm chốt và gặp một người lính đang đứng gác. Định lại gần hỏi chuyện làm quen thì anh ra hiệu cho tôi im lặng và lệnh: “Cậu ngủ trước, tớ gác, nửa đêm tớ gọi cậu thay”. Nghe anh nói vậy, tôi dựa lưng vào thành hầm ếch định ngủ nhưng vì lần đầu lên chốt khiến tôi hồi hộp, cứ trằn trọc mãi...
Nửa đêm, anh gọi tôi dậy thay ca. Chỉ tay về phía trước, anh nói khẽ: “Cậu thấy vạt cây kia không, trong đó có khoảng chục tên thám báo đang ngủ. Cách đây nửa giờ, tớ vẫn còn nghe thấy chúng gọi nhau xin thuốc hút”. Sau đó, anh bàn giao cho tôi hai khẩu súng tiểu liên AK nạp đầy đạn, một khẩu súng phóng lựu M-79, 4 nút điểm hỏa mìn định hướng Claymore, hàng chục quả lựu đạn US đã vuốt thẳng chốt an toàn. Anh dặn thêm: “Nếu có người từ phía vạt cây kia xuất hiện mà không ra ám hiệu là cậu cứ nổ súng. Trước tiên phải điểm hỏa mìn định hướng, rồi ném lựu đạn, lúc đó tớ sẽ ra hỗ trợ cậu... Thôi, tớ ngủ đây, lúc nào mệt gọi tớ thay cho”. Nói xong, anh chui vào hầm ếch ngủ ngon lành.
Từng gác đêm nhiều lần nhưng đây là lần đầu tiên tôi đứng gác cách địch vài chục mét nên cảm giác lo sợ cứ ở đâu ập đến. Tôi nhìn chỗ nào cũng thấy cây cối rung rinh như có người đang di chuyển. Tôi tự nhủ: “Bình tĩnh, phải bình tĩnh...”. Vừa căng mắt quan sát, tôi vừa kiểm tra lại những vũ khí, trang bị mà anh bàn giao và luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. Trong cuộc đời, chưa khi nào tôi cảm thấy thời gian trôi chậm như đêm hôm ấy. Lấy hết can đảm, tôi cố gắng gác đến khoảng 3 giờ sáng thì gọi anh dậy. Nghĩ rằng sẽ bị anh mắng cho một trận, nhưng anh chỉ hỏi han tình hình ca gác rồi bảo tôi đi ngủ giữ sức khỏe và nhắc nhớ lấy màn phủ lên mặt cho đỡ muỗi. Tự nhiên nỗi sợ hãi trong tôi không còn nữa, thay vào đó là cảm giác ấm áp đến lạ kỳ và sự cảm kích dành cho anh.
Sáng hôm sau, tôi được lệnh rút vào bên trong vạt rừng gần hầm chỉ huy đại đội và gặp lại anh Đinh. Mang chuyện tối qua kể lại cho anh Đinh, tôi biết được người lính gác cùng mình tên Khoáng, người Cao Bằng, là lính chiến trường nhiều năm. Khu vực phía trước điểm chốt của chúng tôi là vị trí tạm dừng của bọn biệt kích, thám báo. Do ở đó gần nguồn nước nên địch đã xây dựng công sự dã chiến làm nơi nghỉ chân mỗi khi chúng đi lùng sục qua.
Những ngày sau đó, cứ đêm xuống là tôi bò ra điểm chốt tiền tiêu gác cùng anh Khoáng, sáng hôm sau lại rút về hầm chỉ huy đại đội trò chuyện với anh Đinh. Thời gian này địch chỉ bắn pháo cầm canh nên tôi cũng không tham gia trận chiến đấu nào. Tuy nhiên, những ngày trực chốt đã giúp tôi hiểu và trân quý tình đồng chí, đồng đội trong chiến đấu, rèn cho tôi sự gan dạ và bản lĩnh của người lính trên chiến trường.
NGUYỄN TRƯỜNG
Ghi theo lời kể của Đại tá, TS Cao Phương Giang, nguyên giảng viên Khoa Chỉ huy-Tham mưu kỹ thuật, Học viện Kỹ thuật Quân sự