Những chiến sĩ quyết tử
Tháng 11-1946, Thủ đô Hà Nội gấp rút chuẩn bị mọi mặt chống thực dân Pháp xâm lược. Năm tiểu đoàn Vệ quốc đoàn được bố trí ở ba liên khu trong nội thành. Riêng trung đội do Nguyễn Như Trang làm Trung đội trưởng có nhiệm vụ bảo vệ một số cán bộ của Khu 11 đóng ở khu Lò Lợn. Ông Nguyễn Hoàng Sâm, một tiểu đội trưởng của trung đội, hiện ở Trích Sài, quận Tây Hồ (Hà Nội), kể lại: “Lúc đó, cán bộ Mặt trận Khu 11 mượn nhà dân ở khu Lò Lợn, giáp Nhà máy xay Lương Yên. Chúng tôi canh gác, bảo vệ các anh. Ngày 16-12-1946, Lễ Quyết tử được tổ chức. Đêm 19-12-1946, chúng tôi đánh địch ở đê Stai Quai, rồi vào ngã ba Lò Đúc-Yersin. Chiến đấu được ít hôm thì trung đội sáp nhập với Tiểu đoàn 212 Vệ quốc đoàn”.
Tiểu đoàn có ba đại đội 14, 15, 16 do đồng chí Quang Tuần làm Tiểu đoàn trưởng, Bùi Cúc là Tiểu đoàn phó, Văn Tân là Chính trị viên. Nguyễn Như Trang trở thành đại đội trưởng một đại đội của tiểu đoàn. Những cuộc chiến đấu quyết liệt đã diễn ra ở các vị trí: Ô Cầu Dền, phố Huế-Viện Pasteur, ngã năm Lò Đúc-Hàm Long-Lê Văn Hưu-Phan Chu Trinh, Nhà máy Rượu Hà Nội, Ô Đông Mác-cảng Phà Đen. Ông đã cùng đồng đội tiêu diệt địch và xe háp-trắc ở Mặt trận Liên khu 2. Ông Lê Hùng Lâm, chiến sĩ của Đại đội 16 kể về những ngày chiến đấu ác liệt ở Liên khu 2 dưới sự chỉ huy của Đại đội trưởng Nguyễn Như Trang trong bài hồi ký Từ Hà Nội đi Tây Tiến: “Chiến lũy Hòa Mã cản địch từ phố Huế vào rất có hiệu quả. Xe tăng địch đến góc phố phải dừng lại. Tôi được phân công ra bắn giữa ụ đất. Bắn xong mỗi phát lại phải lao khẩu khai hậu vào trong nhà để anh em thông nòng. Ở Ô Cầu Dền, địch cũng bị chặn đánh rất lâu. Chúng không qua được chiến lũy, phải đánh vòng qua Việt Nam học xá xuống chợ Mơ rồi đánh ngược lên. Sau Tết, đại đội tôi đánh chặn địch ở Nam Dư Thượng-Nam Dư Hạ. Biết đơn vị mình đang bí mật chọn người đi Tây Tiến, tôi tìm gặp anh Như Trang xin đi. Chúng tôi để Hà Nội lại sau lưng...”.
Vang mãi chiến công người anh hùng
Từ Nam Dư ra Xuân Mai bổ sung quân số, thành Tiểu đoàn 150 để đi đánh địch phía Thượng Lào, giữ sườn phía tây của ta. Cuối tháng 2-1947, Tiểu đoàn 150 thuộc Trung đoàn 52 Tây Tiến hành quân theo hướng Lương Sơn-chợ Bờ-suối Rút-Chiềng Sại rồi ngược sông Mã đánh chiếm Mường Lát trong năm 1947.
    |
 |
Liệt sĩ Nguyễn Như Trang. Ảnh tư liệu. |
Tháng 5-1948, thực dân Pháp đã tập hợp bọn lang đạo phản động đầu sỏ trong tỉnh về thị xã Hòa Bình để thành lập “Xứ Mường tự trị”. Chúng phong Đinh Công Quyền làm Chánh quan lang, ra báo Sao Trắng làm công cụ tuyên truyền. Thu-đông năm 1948, quân Pháp đã chiếm đóng 2/3 đất đai ở Hòa Bình, kiểm soát toàn bộ tuyến Quốc lộ 6, Quốc lộ 12, Quốc lộ 15. Từ đó, chúng muốn biến Hòa Bình thành “bức tường thép bên sông Đà”, chặt đứt mạch máu giao thông Liên khu 3, Liên khu 4 với Việt Bắc và Tây Bắc. Do đó, đoàn quân Tây Tiến đã trải qua những ngày chiến đấu cực kỳ gian khổ. Nguyễn Như Trang đã chỉ huy một đại đội thuộc Tiểu đoàn 150 chiến đấu trên Đường số 6, Hòa Bình, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, thu vũ khí, chặn đường hành binh của địch. Điển hình là trận Mè-Lặt, Lương Sơn, ta đã tiêu diệt hàng chục tên. Tên Phùng Đồng Đẳng, đảng trưởng khét tiếng phải đền tội. Trận tiêu diệt căn cứ Mai Châu, đồn Mai Hạ, Mường Lò, anh đã chỉ huy bộ đội đánh phá cơ quan ngôn luận của “Xứ Mường tự trị” có tờ báo Sao Trắng do Quách Đăng làm chủ bút, diệt 2 trung đội địch, làm chủ trận địa, lập chiến công vang dội khắp vùng. Chỉ trong một thời gian ngắn, Nguyễn Như Trang chỉ huy đại đội chiến đấu trên địa bàn rộng lớn ở miền núi Hòa Bình. Anh đã được cấp trên tin tưởng, bổ nhiệm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 150, Trung đoàn 52 Tây Tiến.
Thu-đông năm 1948, Trung đoàn 52 chủ trương các đại đội độc lập hỗ trợ cho Tiểu đoàn 150 nhổ đồn Đầm và đồn Nghẹ-hai vị trí quan trọng của địch ở Ngọc Lặc, phía tây Thanh Hóa để từ đó sẽ tạo đà giải phóng một vùng rộng lớn Thanh Hóa-Hòa Bình. Một đoàn chuẩn bị chiến trường do Trung đoàn trưởng An Giao, Chính ủy Hùng Thanh dẫn đầu. Tiểu đoàn 150 do Tiểu đoàn phó Như Trang và Đại đội trưởng Nguyễn Huy Ngọc chỉ huy. Sau vài ngày hành quân, ngày 19-11-1948, bộ phận trinh sát tình hình địch tới thôn Mu, làng Ngọc Lâu, châu Lạc Sơn (nay là xã Tự Do, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình). Do bị bọn Mường gian chỉ điểm, bộ phận trinh sát bị một đại đội địch tăng cường, trong đó có trung đội lính Âu-Phi tấn công. Theo lời kể của ông Lê Hùng Lâm-người luôn luôn theo sát Nguyễn Như Trang những năm trước đây, hình ảnh của anh hiện lên thật oanh liệt cho đến hơi thở cuối cùng: Trong điều kiện hoàn toàn bất lợi, địa hình trống trải, lực lượng chênh lệch (ta 1, địch 10), anh cho các chiến sĩ rút khỏi vòng vây địch để bảo toàn lực lượng. Trận địa chỉ còn anh và một đại đội trưởng ở lại thu hút lực lượng địch về phía mình. Khi đồng chí đại đội trưởng hy sinh, chỉ còn một mình, anh vẫn tiếp tục chiến đấu trong vòng vây của địch, diệt hơn 10 tên địch và hy sinh anh dũng tại thôn Ngọc Lâu, châu Lạc Sơn, Hòa Bình trưa 19-11-1948. Tên trung úy Pháp đứng trước thi thể anh đã thốt lên: Tôi cúi đầu thán phục trước cái chết anh hùng của người sĩ quan trẻ tuổi. Và chính tấm gương anh hùng của anh đã cảm hóa Grand Wath-người lính Âu-Phi chạy sang hàng ngũ Bộ đội Cụ Hồ.
Các liệt sĩ đã được đồng bào thôn Mu chôn cất-“áo bào thay chiếu anh về đất”. Một thời gian sau, đơn vị cử người tìm đến gia đình anh đang tản cư ở Thanh Ba, Phú Thọ, đau đớn báo tin buồn. Năm 1957, mẹ anh-cụ Đặng Thị Lục và người em trai thứ bảy là Nguyễn Như Giao lên làng Mu. Trải bao khó khăn, vất vả, khi đạp xe, khi xuống thuyền, theo sông mà đi, mới đến được làng Mu. Được đồng bào địa phương tận tình giúp đỡ, gia đình đã lần tìm được hài cốt hai anh Nguyễn Như Trang và Nguyễn Huy Ngọc trong hai ngôi mộ kề bên nhau. Hài cốt liệt sĩ Nguyễn Như Trang được đưa về an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ Mai Dịch.
Chiến công xuất sắc của Nguyễn Như Trang trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận, truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân ngày 21-10-2014.
PHẠM KIM THANH