NGƯỜI VIỆT NAM MỚI VỚI TÊN BÁC HỒ ĐẶT

Tôi và anh Niên thường xuống 3TG nghe chuyện vui. Chúng tôi gọi ông bà là anh chị Mạnh. Bà là người Nhật, rất hiền. Ông cũng hiền, vui, giỏi tiếng Anh, Pháp, Trung, Nhật, Đức…, rất thạo tốc ký. Được Bác Hồ, ông Đồng, ông Giáp rất quý, có quà tặng là radio tốt đều dành cho ông.

leftcenterrightdel
Ban liên lạc cán bộ phục vụ Bác Hồ thời kỳ 1945-1954 tại ATK Việt Bắc.Tác giả bài viết đứng hàng sau cùng, đeo kính, áo màu. Ảnh do tác giả cung cấp 
Ông kể, ông vẫn chưa biết quê mình ở đâu, họ hàng còn ai, tên cha mẹ đặt là gì. Chỉ đoán là Nam Định. Cậu bé 2-3 tuổi đã sinh sống nơi “đầu đường xó chợ” xin ăn vì gia đình ly tán do bọn quyền thế nhà giàu trong làng cướp nhà đất. Cậu lên tàu Nam Định, Lạng Sơn, Lào Cai, Hải Phòng, sang cả bên Tàu và dừng lại ở đất cảng tính kế lâu dài. Được cái tinh mắt, sáng ý, việc gì cũng làm, ai nhờ gì cũng giúp nên mọi người tin yêu, giao việc. Chừng ngoài 10 tuổi, cậu đã có suy nghĩ người lớn, nhận rõ một xã hội nô lệ, bất công, nỗi nhục của dân lành mất nước bị thằng Tây đánh đập, khinh miệt. Dân bên Tàu còn tê tái, xơ xác, nghèo khổ hơn dân Việt. Cậu nghĩ tới Hồng Công nên quyết định trụ lại đất Sáu Kho vừa kiếm sống, chọn nghề, vừa học mót tiếng Tây, tiếng Tàu. Cậu làm quen với một lính Tây, học bồi tiếng Pháp. Nó đưa cậu lên tàu chạy thuê hằng tuần sang Hồng Công đưa lính Tây đi ăn chơi, nghỉ Semaine Anglaise chủ nhật lại về. Được một thời gian, cậu ở lại Hồng Công, cũng là khi thằng Tây cậu quen về nước. Cậu học bồi tiếng Nhật, lóe lên trong đầu dự định sang Tokyo, nhưng phải có tiền, cậu liền nghĩ ra một kế là bọn lính chiều thứ bảy sang Hồng Công, lên tàu thường vội vàng, có thằng rơi mũ bê-rê, tuột lon, rớt cái nọ, cái kia ở bến tàu. Thằng bé con tinh mắt, nhanh trí nhận diện, nhớ mặt người làm mất và vật rơi để hôm sau trả lại cho người mất. Đến giờ trở lại phòng, khi dưới bến còi tàu hối thúc, mấy tên rơi rớt đồ nhớn nhác vội vã lục lọi, kiếm tìm trong người thì thằng bé biết ngay thứ nó đang cầm trong tay: Một cái lon sĩ quan chẳng hạn. Tên sĩ quan đang lo tái mặt thì thằng bé con đứng trước mặt, nó chắp tay cung kính thưa: “Có phải cái này của ngài, thưa ngài?”. Thằng sếp trố mắt ngỡ ngàng thấy vật nó đang tìm. Vậy là xảy ra hai khả năng: Bị đá đít, bạt tai hoặc mừng quýnh. Nó móc túi có bao nhiêu tiền lẻ cho hết kèm theo lời “méc-xi bố-cu”. Cậu bé nhận ra kẻ vô ơn rất hiếm gặp…

Rồi cậu tiếp cận một tàu buôn Nhật. Chủ tàu để mắt, ưng ý cậu bé khôi ngô, rất ngoan, thạo việc. Ông đang có ý định tìm con nuôi nên thử nhận cậu lên tàu đưa về Nhật xem sao. Ông Mạnh kể, thật là mình có tâm lý tự ti dân tộc nên khai là Chai-nơ (người Tàu) từng ở Hải Phòng giúp việc pha chế, quét sơn các biệt thự Tây. Lão chủ thấy sơn pha chế thêm phụ gia như thằng bé làm vừa bóng mặt, màu đẹp, vừa chóng khô và chống mưa nắng, liền nhận là sáng chế của mình, đuổi thằng bé đi. Ông chủ mới người Nhật cũng có công ty sản xuất sơn, nhờ sáng chế này mà sơn của công ty ông trở nên nổi tiếng, bán chạy càng giàu to nên quyết định nhận cậu bé làm con trai nuôi, cho đi đào tạo trường sĩ quan tình báo, lấy tên mới Javinaki. Tôi hỏi: Thưa anh, tên này nghĩa là gì?

Ông Mạnh cười: Đoán cũng ra mà: Ja là Japan. Vina là Việt Nam. Còn Ki, một yếu tố phụ của danh từ.

Javinaki học rất giỏi, giỏi cả các môn học thuộc văn hóa cổ truyền xứ Phù tang như võ sĩ đạo, lại kết hợp đưa cả võ thuật ta, Tàu, Tây vào chương trình ngoại khóa. Đặc biệt, các ngoại ngữ thông dụng vùng Đông Nam Á như Việt Nam, Lào, Thái anh đều thông thạo. Thế là viên sĩ quan tình báo tốt nghiệp thủ khoa gắn lon đại úy ra trường được phái ngay tới Đông Dương-một chiến trường nóng bỏng phải đấu trí, đấu lực với các thực dân kỳ cựu như Pháp, Anh để thực hiện chính sách Đại Đông Á của đế chế Nhật Hoàng…

Tôi rất may mắn là cựu cán bộ thanh niên xung phong Đội 36, Đơn vị Anh hùng LLVT nhân dân phục vụ ATK Việt Bắc. Đội trưởng là ông Tạ Quang Chiến. Nghỉ hưu ở Hà Nội được giúp việc các vị lão thành như Vũ Kỳ, Cù Văn Chước. Hiện nay còn sống có ông Chiến là Trưởng ban Ban liên lạc cán bộ phục vụ Bác Hồ trên ATK. Khi viết bài này, tôi hỏi lại ông Chiến để xác minh thêm tư liệu trong hồi ký của ông Lê Ánh, chồng bà Lê Thị Thu, là em gái của vợ ông Phạm Văn Đồng-bà Phạm Thị Cúc. Ông Chiến lấy “sổ cái” ghi địa chỉ, điện thoại các vị từng ở Khu 5 theo ông Đồng ra Việt Bắc năm 1949 cùng ông Ngô Văn Mạnh như Đỗ Uông, Nguyễn Lanh, Phạm Văn Nho, Trần Việt Phương.

Ông Chiến cho biết, ông Mạnh được thả dù xuống vùng Đà Nẵng, chạy sang Việt Minh làm nội gián cho ta, bà Mạnh là phụ nữ Nhật. Ông bà có con gái đang ở trong Thành phố Hồ Chí Minh. Ông được ông Đồng đưa ra Việt Bắc, làm việc trong bộ phận khai thác tin tức đối ngoại ở Chủ tịch phủ. Hồi ký ông Lê Ánh viết: Trong cơ quan Văn phòng Phan Mỹ đặc biệt có hai “người Việt Nam mới” là Hồ Chí Dân người Đức, Hồ Chí Thọ người Áo. Còn ông Mạnh, với tên Bác Hồ đặt cho là Ngô Văn Mạnh, quốc tịch Nhật, sĩ quan Nhật, làm “nội tình” cho Việt Minh thì sau này một số người mới biết. Chúng tôi hỏi ông: Ông họ Ngô? “Không, cũng không can hệ gì đến Ngô Đình Diệm mà là “đầu Ngô mình Sở”, xạo vậy thôi”-ông cười.

3TG - SỰ HY SINH THẦM LẶNG

Hồi ký ông Lê Ánh viết: Anh Mạnh là một nhân tài, trên ATK, mỗi ngày anh ra một bản tin tiếng Pháp phục vụ Bác Hồ và các vị lãnh đạo. Năm 1949, anh ra Việt Bắc, chị ở lại miền Nam thì bị bệnh thần kinh, đẻ được đứa con trai thì khỏi bệnh. Anh chưa biết mặt con. Hoàn cảnh bí mật. Ngày đó theo Hiệp nghị Genève, hai năm không có tổng tuyển cử nhưng hai miền được gửi bưu thiếp cho người thân. Không có ảnh, chị vẽ hai bàn tay con lớn dần theo mỗi cánh thư: “Đó, con của ba nó bằng này rồi đó…”. Năm 1954 tập kết ra Bắc, chị sinh thêm cho anh một cô con gái xinh đẹp giống mẹ như đúc.

Lại nói chuyện ATK, ngày ở Đồng Ngõa, có hai người Tày giúp việc là Nhượng và Lượm thay nhau ngày đêm quay máy phát điện, nhưng xăng dầu và tiếng ồn trong rừng dễ làm lộ địa điểm. Anh Mạnh có tài xoay xở, ngoại giao, sáng kiến, nghĩ cách chế ra chiếc xe đạp hai chỗ ngồi, hai đĩa xích líp nối nhau, đặt khung xe lên giá gỗ, mắc xích vào quay tay bằng một líp xe khác. Anh ngồi lên yên, chân đạp, đeo tai nghe, tay trái vặn nút radio dò đài phát, tay phải bút chì ghi tốc ký chữ Nhật. Giảm hai biên chế chạy điện cho đi tăng gia rau xanh ngoài bờ suối, đem cho không trong các bếp tập thể cơ quan. Tôi xuýt xoa tâm phục khẩu phục nói với chị Thu, anh Ánh: Giá ngày ấy hai phó nháy Đinh Đăng Định, Nguyễn Côn chộp được pô ảnh rồi đề tựa “Một kỳ tích Thông tấn xã Việt Nam kháng chiến” thì thế giới càng rõ thêm tại sao ta đánh bại mọi kẻ xâm lược hùng mạnh dù chúng từ đâu tới.

Sáng sớm 5-8-1964, nghe tiếng chúng tôi xuống cầu thang, anh Mạnh đứng ở cửa thông báo đêm qua Tổng thống Mỹ Johnson cảnh báo trước, trưa nay sẽ cho máy bay đánh phá ra miền Bắc để trả đũa Hà Nội dám tấn công khu trục Maddox của Mỹ ngoài Vịnh Bắc Bộ. Quả nhiên đến trưa, máy bay Mỹ  hàng trăm chiếc đủ các kiểu từ đảo Guam, từ Cò Rạt, Thái Lan thay nhau bay ra miền Bắc Việt Nam ném bom bắn phá, điểm xa nhất tận Quảng Ninh. Về sau, chính Quốc hội hai viện Mỹ và thế giới đã đồng loạt lên tiếng phản đối nhà cầm quyền Mỹ, ủng hộ Việt Nam về sự kiện Vịnh Bắc Bộ: Một sự ngụy tạo “song tiễn tề xuyên”-bắn một phát hai mũi tên cùng trúng vào đích. Nghĩa là cậy thế ta đây nước lớn giàu mạnh, lừa dối Quốc hội Mỹ và dư luận để bắt đầu đánh phá miền Bắc, đổ quân vào miền Nam, thu phiếu bầu Tổng thống cho mình vào cuối năm. Dĩ nhiên, ông ta đã thất bại.

Nhiều người nhận xét về ông Mạnh thường nói, trời cho ông có đôi tai vành loe quá khổ như cái loa thu âm thanh nghe rất giỏi tiếng nước ngoài. Trong phòng 3TG rộng non vài chục mét, dọc quanh tường đặt gần chục cái radio cùng mở một lúc nhiều thứ tiếng, đài toàn loại tốt nhất thời đó, nhiều cái là quà của Bác Hồ, ông Chinh, ông Giáp… được các nước biếu tặng.

Ông Mạnh ngồi bên chiếc bàn con giữa phòng đặt chiếc máy chữ. Thường mắt ông lim dim như đang thiu thiu ngủ nhưng tai nghe như là lọc tiếng, lọc tin từ một đài bất kỳ, hoặc tổng hợp thành một tin từ 3, 4 đài và tay gõ máy một táp 8-9 bản. Hoặc ghi tốc ký tiếng Nhật vào vở học sinh rồi gõ máy thành bản tin. Sáng sáng, cậu Duy lại đạp xe lên lấy bản tin phân phối đến 7-8 nơi quan trọng nhất...

Sau ngày 5-8-1964 không lâu, tôi về thăm nhà số 7 thì anh chị Mạnh đã chuyển sang Trường Đại học Sư phạm Hà Nội dạy Pháp văn rồi cả nhà về lại miền Nam. Nhớ anh, rất quý anh chị, không biết con cháu anh chị giờ ở đâu?

TRỊNH TỐ LONG