    |
 |
Đồng chí Phan Tử Quang. Ảnh tư liệu |
Năm 1938, 14 tuổi, chàng trai quê hương Hà Tĩnh Phan Tử Quang được bố mẹ cho ra Hà Nội học ở Trường Tư thục Thăng Long và được thầy Võ Nguyên Giáp giảng dạy. Trưởng thành trong hoạt động cách mạng, ông được cử đi học tập ở nhiều nơi, đến năm 1955, sau khi đi học ở Liên Xô về, ông được bổ nhiệm chức vụ Chính ủy Phòng Xăng dầu, Tổng cục Hậu cần.
Theo Lịch sử ngành xăng dầu Quân đội nhân dân Việt Nam (tập 1, 1945-1975), ngày 24-8-1968, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Xăng dầu, Tổng cục Hậu cần. Ngày 14-9-1968, đồng chí Phan Tử Quang, Cục phó Cục Quản lý xe được bổ nhiệm giữ chức Cục phó thứ nhất Cục Xăng dầu. Đại tá Mai Trọng Phước, nguyên Cục trưởng Cục Xăng dầu, người có nhiều năm sát cánh bên Đại tá Phan Tử Quang kể: “Những năm 1967-1968, tình hình xăng dầu cung cấp cho chiến trường miền Nam vô cùng khó khăn vì sự đánh phá ngày càng ác liệt của kẻ thù hòng ngăn chặn sự chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến. Do thiếu xăng mà Bộ tư lệnh Đoàn 559 chỉ sử dụng được một nửa số xe biên chế, có lúc chỉ còn 20%. Trước yêu cầu cấp bách cần bảo đảm việc thông suốt xăng dầu từ Bắc vào Nam, việc xây dựng tuyến ống xăng dầu vượt Trường Sơn đã được triển khai. Sau khi được Liên Xô viện trợ cho hai bộ đường ống xăng dầu dã chiến, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện, đồng chí Phan Tử Quang đã tổ chức các lớp đào tạo về lắp ráp và sử dụng đường ống cho cán bộ, chiến sĩ dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia bạn”.
Sau khi tham gia lớp huấn luyện, nhận trọng trách là người chỉ huy Công trường 18, có nhiệm vụ vào Khu 4 để làm đường ống dẫn xăng dầu đối với ông Mai Trọng Phước là một nhiệm vụ rất nặng nề. Băn khoăn, lo lắng, sợ không hoàn thành được nhiệm vụ là suy nghĩ của ông lúc ấy. Nhưng ngay từ phút đầu tiếp xúc, thủ trưởng Phan Tử Quang đã nói với ông: “Chúng ta vừa làm vừa rút kinh nghiệm, sống chết có nhau, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ trên giao. Tôi rất tin tưởng vào trình độ, khả năng và sự sáng tạo của các đồng chí!”. Lời động viên chân tình ấy đã giúp ông Mai Trọng Phước vững vàng hơn với nhiệm vụ mới. Sau đó, lại được nghe kể về việc thủ trưởng Quang từng quyết tâm “nấu đá ra dầu” và nhiều sáng kiến khác khiến ông càng thêm tin tưởng.
    |
 |
Đoàn cán bộ Tổng cục Hậu cần làm việc với cán bộ Cục Hậu cần B2, năm 1973 (đồng chí Phan Tử Quang ngồi đầu tiên, bên phải). Ảnh tư liệu. |
Chuyện là khoảng cuối năm 1958, nhận được thông tin, tại Quảng Ninh, nhân dân phát hiện có mỏ đá chứa dầu, ông Phan Tử Quang đã cử ngay cán bộ kỹ thuật của phòng xuống hiện trường nghiên cứu cụ thể. Khi thấy đúng là đá có hàm lượng dầu, ông liền tổ chức lực lượng đưa ngay về nấu thử. Vào thời điểm ấy, nhận thức về việc chế luyện xăng dầu của ta còn hạn chế. Đồng chí Phan Tử Quang và các cán bộ của Phòng Xăng dầu gặp không ít khó khăn khi quyết tâm xây lò, chế tạo tháp chưng cất. Lò được đốt bằng than đá, còn tháp chưng cất được gò bằng thùng phuy sắt 200 lít có đường ống dẫn hơi qua bể ngưng tụ. Sau những ngày đêm đun nấu liên tục đã thu được sản phẩm dầu, đem chưng cất dầu thì thu được nhiên liệu xăng. Ngay sau đó, trong một cuộc triển lãm của ngành hậu cần về thành tựu đạt được trong phong trào thi đua, khi thấy những chai xăng được cán bộ Tổng cục Hậu cần chưng cất được từ đá dầu, Bác Hồ đã ngợi khen và khẳng định: “Nước ta nhất định có dầu!”.
“Đêm 12-6-1968, cuộc hành quân bí mật của hơn 400 chiến sĩ Công trường 18 đi vào vùng “tam giác lửa” Vinh-Nam Đàn-Linh Cảm (Nghệ An) bắt đầu. Phải thi công trong điều kiện địch đánh phá ác liệt, mọi động tĩnh của ta đều có thể bị chúng phát hiện. Việc đi sâu, đi sát của thủ trưởng Phan Tử Quang là sự động viên tinh thần rất lớn với cán bộ, chiến sĩ Công trường 18 chúng tôi”-Đại tá Mai Trọng Phước kể tiếp.
Dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Phan Tử Quang, đúng 18 giờ ngày 22-6-1968, một sự kiện lịch sử đã diễn ra gần bến đò Vạn Rú (Nam Đàn): Cán bộ, chiến sĩ Công trường 18 tổ chức đưa đường ống vận chuyển xăng dầu vượt dòng sông Lam. Địch đánh phá ác liệt nhưng những chiếc ống vẫn nối đuôi nhau nhích dần về phía bờ nam trong sự hồi hộp, phấn chấn của mọi người. Đến 5 giờ sáng 23-6-1968, việc đưa tuyến đường ống nặng gần 3 tấn qua sông Lam được hoàn thành. Đại tá Mai Trọng Phước kể rằng, chỉ khi việc kéo đường ống vượt qua dòng sông Lam thành công thì các ông mới tin rằng mình đã hoàn thành nhiệm vụ và có thể lắp ống đi xa hơn. Sau 45 ngày đêm lao động quên mình, ngày 10-8, dòng xăng bơm từ kho Nam Thanh (Nam Đàn) đã vào tới kho Nga Lộc (Can Lộc). Sau đó, đường ống dẫn xăng dầu đã được nối liền đến Hương Khê (Hà Tĩnh) rồi vượt đèo Mụ Giạ (Quảng Bình) sang Na Tông (Lào).
Tiếp nối thành công ấy, đồng chí Phan Tử Quang cùng các cộng sự tiếp tục đề xuất ý tưởng phát triển đường ống vào sâu hơn. Với tác phong sâu sát, không ngại gian khổ, hy sinh, ông có mặt ở những nơi khó khăn, ác liệt nhất, luôn đề xuất những biện pháp táo bạo, rất hiệu quả như: Dùng xe con để tham gia kéo ống vượt sông Lam; sử dụng trực thăng để cẩu ống, cẩu bể khi xây dựng tuyến ống từ mốc 23 ra Đồng Đăng rồi những biện pháp nghi binh lừa địch khi thi công các tuyến ống... Đặc biệt là việc ra đời của chiếc bơm cao áp Trường Sơn dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ông đã tạo nên bước ngoặt để đường ống xăng dầu vào đến tận Đông Nam Bộ.
Năm 2001, trong một bài viết kể lại kỷ niệm về những ngày tổ chức bảo đảm xăng dầu trên toàn mặt trận trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, Cục trưởng Cục Xăng dầu Phan Tử Quang kể: “Nhìn ánh mắt vui mừng của những người được cấp xăng dầu đầy đủ, kịp thời, nhanh chóng, trong tôi trào dâng niềm vui sướng, xúc động đến nghẹn ngào. Tôi liên tưởng đến những ngày đầy gian nan thử thách. Cái buốt lạnh của những đêm cuối năm 1968 ngủ trong hang trên cao điểm 050 ở biên giới Việt-Lào để đón dòng xăng từ Khe Ve bơm qua đèo Mụ Giạ sang Na Tông (Lào) như còn ớn lạnh trên lưng...”.
Còn Đại tá Mai Trọng Phước vẫn nhớ như in hình ảnh đồng chí Phan Tử Quang và người trợ lý Dương Quốc Hà thường len lỏi đạp xe đi kiểm tra và nắm tình hình trên tuyến ống. Khi ông vào gặp gỡ chính quyền các địa phương nơi có đường ống đi qua để nhờ hỗ trợ, khi kịp thời nắm bắt nguyện vọng của anh em để giải quyết các vướng mắc, khó khăn trong sinh hoạt. “Chỉ qua gần 7 năm (từ 1968 đến 1974), bộ đội đường ống xăng dầu đã hoàn thành tuyến đường ống dài hơn 5.000km từ Lạng Sơn và Móng Cái (Quảng Ninh) vào đến Bù Gia Mập (Bình Phước), với hơn 300 trạm bơm và 100 khu kho có sức chứa hơn 30 vạn tấn xăng dầu đặt rải rác dọc tuyến”-Đại tá Mai Trọng Phước tự hào nói.
Không chỉ sâu sát trong công việc, Đại tá Phan Tử Quang còn là người sống rất tình nghĩa, quan tâm chu đáo đến đời sống của cán bộ, chiến sĩ ngành xăng dầu. GS, TS Phan Xuân Minh, con gái Đại tá Phan Tử Quang đã kể lại với chúng tôi: “Có lần, trên đường đi công tác, gặp pháo địch, người lái xe hoảng quá làm cha tôi ngã lăn 3 vòng liền. Khi ông nhắc nhở thì người lái xe thanh minh do quá lo lắng, sợ hãi vì “em còn 5 con nhỏ ở nhà”. Sau đó, ngay khi từ Viện Quân y 108 trở về, ông đã không trách phạt mà còn ký quyết định cho người lái xe kia được chuyển ngành để có điều kiện phụ giúp vợ con”.
Năm 1975, theo sự phân công của tổ chức, Đại tá Phan Tử Quang tạm chia tay ngành xăng dầu quân đội để phát triển một lĩnh vực khác, ngành dầu khí. Trên cương vị Phó tổng cục trưởng Tổng cục Dầu khí (nay là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam), phụ trách công tác tài chính và xây dựng cơ bản, với bản lĩnh của người lính, cùng với tài trí và quyết tâm sáng tạo, ông đã có những quyết định táo bạo làm nên thành công của một loạt dự án như: Xây dựng cảng dịch vụ dầu khí đầu tiên ở Vũng Tàu, khai thác mỏ Bạch Hổ hay xây dựng chân đế giàn khoan…
Với những đóng góp và cống hiến trong quá trình công tác, Đại tá Phan Tử Quang đã được trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Quân công hạng Nhì, Ba; Huân chương Độc lập hạng Ba; Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng Nhất; Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng. Ông mất năm 2016. |
PHẠM THU THỦY