Trong căn nhà khang trang ở hẻm 13, đường Lý Thường Kiệt, phường Dương Đông, TP Phú Quốc, tôi đăm đăm nhìn vào tấm biển “Gặp mặt các cựu tù binh nhà tù Phú Quốc, cựu chiến binh Phân đội Đặc công-Biệt động Phú Quốc, tháng 4-2022”. Thấy vậy, anh Nguyễn Ngọc Toàn bảo: “Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1968-1975, Phân đội Đặc công-Biệt động Phú Quốc được thành lập, tổ chức huấn luyện bài bản, chiến đấu đạt hiệu suất rất cao, góp phần vào chiến công đặc biệt xuất sắc của lực lượng vũ trang huyện Phú Quốc (nay là TP Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang). Phân đội Đặc công-Biệt động Phú Quốc đã tham mưu với Huyện ủy, Huyện đội Phú Quốc, phối hợp hiệp đồng, tổ chức nhiều trận đánh táo bạo, chủ động giải phóng huyện đảo Phú Quốc chiều 30-4-1975 và bảo vệ đảo không để cho tàn quân ngụy Sài Gòn và lực lượng của Khmer Đỏ chiếm đảo. Người phụ trách Phân đội Đặc công-Biệt động Phú Quốc từ cuối năm 1968 đến ngày đảo Phú Quốc giải phóng là ba tôi: Nguyễn Ngọc Toản, thường gọi Ba Toản, tên thật là Nguyễn Văn Mỹ”.

leftcenterrightdel
Anh Toàn cùng ba xem lại những trang tài liệu ghi chép về Phân đội Đặc công, Biệt động Phú Quốc. 

“Ba tôi quê ở xã Tam Hiệp, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc huyện Phúc Thọ, TP Hà Nội). Ông nhập ngũ tháng 10-1963, trải qua các khóa huấn luyện quân sự, nhất là được huấn luyện đặc công tại Trung đoàn 426 (Cục II, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam). Cuối năm 1966, ba tôi cùng đơn vị hành quân vào miền Nam chiến đấu, được biên chế vào đơn vị trinh sát Y4 thuộc Quân khu Sài Gòn-Gia Định. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, đơn vị của ba tôi nhận nhiệm vụ đánh vào Trại Tăng thiết giáp Phù Đổng ở Gò Vấp (Sài Gòn). Đây chính là nơi đặt Bộ chỉ huy Tăng thiết giáp của quân đội ngụy Sài Gòn. Sau Giao thừa, đơn vị ba tôi đã chiến đấu rất dũng cảm, nhanh chóng làm chủ Trại Tăng thiết giáp Phù Đổng. Song do quân số mỏng, lực lượng tiếp ứng không đến được nên địch phản kích, đến chiều tối 31-1-1968, ba tôi và đồng đội chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Địch chiếm lại được trại. Ba tôi bị thương và bị địch bắt đi, giải qua nhiều trung tâm thẩm vấn, trại giam của địch. Tháng 3-1968, chúng đưa ba tôi cùng nhiều tù binh khác đến Trại giam Phú Quốc ở khu B2, nhốt tù binh cộng sản. Đêm 22-6-1968, nhờ sự giúp đỡ của chi bộ ngầm, ba tôi và 5 đồng chí vượt ngục thành công, ra với lực lượng vũ trang cách mạng huyện Phú Quốc. Trong số 6 tù binh vượt ngục hôm đó, 4 đồng chí đã hy sinh, giờ chỉ còn ba tôi ở lại Phú Quốc và chú Tư Dũng, hiện đang sinh sống ở TP Hồ Chí Minh”-anh Toàn kể.

“Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, ba tôi còn công tác ở Huyện đội Phú Quốc, rồi chuyển lên Phòng Chính trị, Bộ CHQS tỉnh Kiên Giang. Năm 1983, ba tôi chuyển ngành về địa phương, được UBND huyện Phú Quốc giao nhiệm vụ Trưởng ban Xây dựng kinh tế mới Bắc đảo Phú Quốc, di dân, lập hai xã mới là Bãi Thơm và Gành Dầu. Năm 2003, ba nghỉ hưu và tham gia một số ban liên lạc, là Trưởng ban liên lạc cựu tù Phú Quốc, Ủy viên Ban liên lạc tù chính trị, tù binh tỉnh Kiên Giang, Ủy viên Ban liên lạc tù binh Việt Nam...” anh Toàn cho biết thêm.

Cuộc gặp mặt các cựu tù binh nhà tù Phú Quốc, cựu chiến binh Phân đội Đặc công-Biệt động Phú Quốc, tháng 4-2022 là do anh Toàn đề xuất và tổ chức, để các đồng đội của ba có dịp gặp nhau, hàn huyên, ôn lại kỷ niệm những năm tháng chiến đấu kiên cường, gian khổ bên nhau. Anh Toàn tâm sự: “Khi nghe chuyện chiến đấu của ba và các chú cùng đơn vị với ba, tôi rất khâm phục. Ở đảo Phú Quốc, những năm chiến tranh, điều kiện sống rất khắc nghiệt, chiến tranh rất ác liệt, địch kìm kẹp, đàn áp phong trào cách mạng, bắn giết người dân không run tay, dù chúng chỉ nghi là cơ sở cách mạng. Có những thời điểm tưởng như Phú Quốc “trắng” phong trào do bị địch cô lập, tổ chức đảng không liên lạc được với cấp trên, với đất liền.

Những năm 1965-1968, có một số cán bộ, nhân viên của ta ở Phú Quốc không chịu được gian khổ, ác liệt đã chiêu hồi hoặc quay về chịu sự quản lý của địch. Địch đã cấp chứng thư cho người từ vùng căn cứ cách mạng về với chính quyền của chúng. Tháng 7-1968, ba tôi-khi đó lấy tên Ba Toản-đề nghị Huyện ủy và Huyện đội cho thành lập một đội đặc công, vì ở Phú Quốc điều kiện rất đặc thù, sử dụng chiến thuật đặc công để đánh địch rất phù hợp. Được trên đồng ý, đội đặc công thành lập lấy tên là Đội 22 (lấy ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22-12). Lực lượng là các tù binh vượt ngục và một số cán bộ, chiến sĩ bộ đội địa phương, quân số khoảng 30 người. Bấy giờ, chú Tư Phước, tù binh vượt ngục, cho biết đã từng làm tiểu đoàn trưởng, được giao làm đội trưởng. Các chú Cáp Đình Hội, Tư Dũng cũng vượt ngục ra được giao làm đội phó. Bố tôi là thượng sĩ, chiến sĩ và các chú Bảy Minh, chú Hùng phụ trách các mũi trưởng...

leftcenterrightdel
 Anh Toàn (bên phải) đến thăm chú Võ Văn Bình, ở ấp Khu Tượng, xã Cửa Dương, TP Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang 

Đội 22 ngoài các tù binh vượt ngục thì có gần một nửa quân số là chiến sĩ lựa chọn từ bộ đội và du kích địa phương. Lớp huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật tác chiến đặc công do Ba Toản phụ trách, luyện tập nghiêm túc, nhanh chóng nắm được các động tác, yếu lĩnh cơ bản và vận dụng vào trong chiến đấu. Huấn luyện được gần 3 tháng, Ba Toản đề nghị trên cho anh em đi đánh thực tập, thực tế đồn địch. Được trên đồng ý, Đội 22 chọn mục tiêu đánh địch ở ấp chiến lược Cửa Cạn. Trận mở đầu, đội chỉ chọn 4 đồng chí đánh trực tiếp và thu được thắng lợi, tiêu diệt tên trưởng ấp ác ôn cùng 20 lính bảo an ở ấp, thu 3 súng, trong đó có 1 súng trung liên. Trong trận này, lực lượng ta chỉ có đồng chí Bảy Minh bị thương nhẹ.

Chiến công đầu làm nức lòng quân và dân Phú Quốc. Tuy nhiên, đến trận đánh thứ hai, Đội 22 đặc công phối hợp với bộ đội địa phương tiến công một trung đội bình định của địch và một đại đội bảo an ở ấp Suối Đá (xã Dương Tơ) nhưng không thành công, ta tổn thất lớn, hy sinh 9 đồng chí. Nguyên nhân xác định là do chưa thống nhất về chỉ huy; chủ quan để lộ mục tiêu chiến đấu và vũ khí do công binh xưởng Phú Quốc chế tạo chưa an toàn, nổ tức thì trên tay bộ đội.

Anh Toàn cho hay: “Tôi được nghe kể, sau trận Suối Đá, ba tôi đề nghị Huyện ủy, Huyện đội Phú Quốc củng cố lực lượng, bổ sung quân số, đổi tên là Phân đội Đặc công-Biệt động Phú Quốc, vì sử dụng cả cách đánh đặc công và biệt động. Từ tháng 12-1968, ba tôi được giao phân đội trưởng và trực tiếp huấn luyện phân đội. Từ đây, Phân đội Đặc công-Biệt động Phú Quốc liên tục chiến đấu, trực tiếp và phối hợp hiệp đồng đánh hàng trăm trận trên khắp địa bàn Phú Quốc. Có nhiều trận, phân đội thắng giòn giã như: Trận đánh đồn Cây Thông (cao điểm 106), khu nhà quận trưởng, trung tâm hành quân, nhà ga, cảng và sân bay; đánh lực lượng Sư đoàn 9 Mỹ, đánh các đơn vị biệt kích, bảo an, cảnh sát ngụy; trận Ấp Nùng. Các trận đánh tiêu diệt những tên ác ôn như: Tư Cá Nóc và một số tên trong Ban 2 biệt kích địch; Chín Hương, Ấp trưởng ấp Cửa Cạn... Hầu hết các đồn, lô cốt, bốt gác của địch ở Phú Quốc đều bị phân đội đặc công tiến đánh, khiến chúng hoang mang, lo sợ”...

leftcenterrightdel
Anh Toàn giới thiệu vị trí ba anh vượt ngục ở Nhà tù Phú Quốc năm 1968. 

Sau năm 1975, phần lớn cán bộ, chiến sĩ Phân đội Đặc công-Biệt động Phú Quốc giải ngũ, về địa phương hoặc chuyển ngành. Khi ở phân đội chiến đấu, họ là quân nhân, nhưng chưa một lần được mặc quân phục. Những ngày lễ chiến thắng, ngày thành lập quân đội, các cựu chiến binh mong muốn được chính quyền hoặc cơ quan quân sự địa phương gặp mặt, động viên, ôn lại truyền thống và kỷ niệm chiến đấu. “Hiểu được tâm tư của các chú, qua câu chuyện của ba, sưu tầm tài liệu, số điện thoại, tôi đã kết nối được với gần 50 cựu chiến binh là cán bộ, chiến sĩ, thân nhân của Phân đội Đặc công-Biệt động Phú Quốc trên mọi miền đất nước. Cứ được tin đồng đội của ba là tôi tìm đến, thăm hỏi; tặng quà những người có hoàn cảnh khó khăn. Khi biết tin ba tôi bị ốm, điều trị ở TP Hồ Chí Minh, các chú đến thăm hỏi rất đông. Có chú từ miền Tây mang ra cho ba tôi chỉ hai quả xoài, nhưng tình cảm thì tôi không thể quên được. Năm 2019, tôi đã mời hơn 40 chú là cựu chiến binh của phân đội ra thăm lại chiến trường xưa, tham quan Phú Quốc. Tôi đài thọ toàn bộ tiền tàu xe, nơi ăn ở khi ra Phú Quốc. Song nhiều chú do tuổi cao, sức yếu, bệnh tật, dù rất muốn thăm lại Phú Quốc, nhưng không thể ra được. Gặp được các chú, nghe các chú kể chuyện, tôi rất cảm phục tinh thần dũng cảm, ý chí chiến đấu, sức chịu đựng khó khăn, ác liệt ở hòn đảo này. Như thế, tôi càng tự hào về ba tôi, về những đồng đội của ba đã có một thời gửi trọn tuổi xuân cho Phú Quốc...”-anh Nguyễn Ngọc Toàn chia sẻ.

Bài và ảnh: HƯƠNG HỒNG THU