QĐND - Những lần đến thăm, thắp hương tưởng niệm các liệt sĩ ở Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt, tù đày tại huyện Phú Xuyên, Hà Nội, tôi chú ý cây ổi xanh tốt được trồng gần lư hương. Hỏi ra mới biết, cây ổi do ông Nguyễn Văn Dư, cựu tù của Trại giam tù binh cộng sản Phú Quốc, nay là ủy viên Ban liên lạc mang từ nơi các chiến sĩ bị địch chôn tập thể trên đảo về đây để kỷ niệm những năm tháng cùng đồng đội đấu tranh bất khuất, giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cách mạng.

Ông Nguyễn Văn Dư mở đầu câu chuyện: Ngày 1-6-1970, trong cuộc chiến đấu ở sóc Lăm-bo, thị trấn Mi-mốt của Cam-pu-chia, gần đường số 7, tôi bị thương. Bọn Mỹ bắt tôi, trong túi áo ngực có giấy tờ ghi: Nguyễn Trọng Dư, chiến sĩ đơn vị 2077.

Ông Nguyễn Văn Dư bê tảng đá từ một hố chôn tập thể những người tù cộng sản ở Phú Quốc, sau đó đưa về bảo tàng ở Phú Xuyên. Ảnh do nhân vật cung cấp.

Máy bay trực thăng Mỹ chở ông về căn cứ Đồng Dù, vào bệnh viện điều trị vết thương ở đùi, cổ chân, sườn trong 20 ngày, sau đó chuyển sang bệnh viện của ngụy 45 ngày. Hết đoạn chữa trị đến đoạn tra tấn ở trại giam Biên Hòa. Lúc này, ở đơn vị, ông Trần Năm tìm được cái khăn rằn của ông Dư khi bị địch bắt, tưởng ông Dư chết, nên đơn vị cho báo tử. Câu chuyện báo tử nhầm, khi về Thanh Hóa, ông Dư mới biết.

Quay điện, đấm đá, “cho đi tàu bay”, hít đất, “đi xe hon-đa”, tra hỏi hòng làm lung lạc tinh thần là những chuyện thường ngày của địch đối với tù cộng sản. Rũ ra, ngất xỉu, tỉnh dậy, ban ngày ăn cơm hẩm với muối và canh có vài cọng rau dền lõng bõng, ban đêm đi tiểu thì phải tự hô “báo đái” để chúng biết, nếu không, sẽ bị đánh ngay vì tội “trốn tù”. Sau ba tháng tra hỏi không lấy được tin tức gì, địch tống ông vào khám tối Biên Hòa. Ông kể: Nó hét: “Mày ở Sư đoàn 7, Trung đoàn 38, làm gì có đơn vị 2077. Cho mày một tuần để suy nghĩ lại, không khai chúng tao bắn bỏ”. Những ngón đòn dã man thời Trung cổ cũng không khuất phục được ý chí người chiến sĩ. Chúng phải lập hồ sơ, đưa ông Dư ra Phú Quốc với số tù 11420.

Tháng 10-1970, ông Dư bị địch chở bằng máy bay ra Phú Quốc. Ông nói: “Ngày ra khỏi Biên Hòa, nó chụp bao tải cát lên đầu tôi. Mắt mũi tối om! Tôi nghĩ, chắc nó đem mình đi thủ tiêu. Dần dần, mới biết nó đưa mình ra sân bay, đến đảo Phú Quốc”.

Ngày nhập trại, phải qua phòng điều hành, địch đánh phủ đầu các chiến sĩ tới tấp, rồi mới làm thủ tục về phòng giam ở các khu. Kỷ niệm đầu tiên của ông khi vào phòng giam là được anh em đến hỏi thăm, ông vẫn nói các thông tin như đã khai với địch; sau này, ông mới biết đó là tổ chức cử người đến hỏi để nắm gân cốt, xem có vững vàng không. Ít ngày sau, ông nhập vào hội đồng hương Thanh Hóa.

Tháng 12-1971, ông được kết nạp Đoàn và làm Bí thư Chi đoàn gồm ba người theo kiểu tổ tam tam hoạt động do chi bộ đảng chỉ đạo. Ông nhanh nhẹn, sáng ý, khéo tay, nên không chỉ gò được vung đậy thùng cơm mà còn mài được kim khâu tay. Cái khó ló cái khôn, từ dây thép gai, cà mèn, ca uống nước, ông được giao nhiệm vụ làm xẻng đào sâu vào lòng đất để có thể vượt ngục. Chiếc xẻng bé xíu như chú dế trũi, đào đất nhích từng xăng-ti-mét, xuyên qua lớp rào kẽm gai ra ngoài. Khó nhất là che mắt địch để chúng không phát hiện được dấu vết đường hầm và đêm đêm, anh em vẫn chui xuống đào. Vì vậy, tổ chức phân công ông Dư chuyên làm nắp cửa hầm. “Như thế này cháu ạ, phải bò ra ngoài, gỡ sợi dây thép gai đem về nắn thẳng ra, đan như chiếc giỏ xe máy. Bánh xà phòng tắm dài 30cm, rộng 5cm, đen sì, chúng phát cho tù nhân, tôi thái nhỏ, trộn với đất và muối, tạo thành hỗn hợp lèn vào giỏ dây thép gai, thế là thành cái nắp cửa hầm. Chất đất nắp hầm dẻo, mịn, nó thuốn để tìm, mà không tìm nổi. Nhưng rồi địch biết chúng tôi có đào hầm nên cứ ba tháng lại chuyển trại tù. Anh em bị chúng phát hiện đang đào hầm, bị tra khảo và có thể bị đưa đi biệt giam, nhưng chúng tôi không nản. Có lần, đang làm nắp hầm, chúng đi điểm danh. Tôi liền ôm cái giỏ dây thép gai ấy vào người, trùm hai tấm chăn đắp tùm hum, người run bần bật. Chúng đến nơi, tưởng tôi sốt rét, thế là thoát”-ông tả chi tiết, tôi mới hiểu, sự sáng tạo, đấu tranh để sống, chiến đấu, trở về với đồng bào thật vô cùng gian nan. Những đường hầm như cánh tay vươn ra ánh sáng tự do. Từ năm 1971 đến cuối năm 1972, 21 người đã thoát ngục tù bằng đường hầm để về Đất Mẹ.

Được chọn ở trong Đội cảm tử, ông Dư làm xẻng đào hầm, làm nắp hầm thành quen tay; nhưng còn một công việc khá nguy hiểm nữa là khênh anh em

trốn trong thùng rác, thoát ra ngoài. Khi đó, địch chuyển ông sang trại 11, gần bìa rừng. Tận dụng địa thế này, tổ chức chọn cách trốn trại giam bằng thùng rác. Thùng phuy đựng dầu 200 lít, cắt một nửa đi để đựng rác có thể chứa được một người.

Vào một ngày cuối tháng 10-1972, ông Dư là một trong 8 người đi khiêng 4 thùng rác đi đổ. Bốn đồng chí ngồi khom khom trong thùng với bao tải dấp nước trùm lên đầu, rồi đến rác, xỉ than. Bọn lính gác không hề nghi ngờ. Bốn người lăn theo thùng rác từ sườn núi xuống, sẽ chạy tiếp vào rừng để tìm đường thoát khỏi đảo. Nhưng hai ngày sau, bọn địch đi rà soát quân số tù, đã phát hiện ra số người thiếu. Chúng cho máy bay trực thăng bay sát sạt cánh rừng và sả súng bắn chết hai người, còn hai người nữa, chúng tống vào phòng biệt giam. Sau này, ông Dư mới biết, người mà ông khiêng tối đó là ông Nguyễn Văn Thiềm, bị nó bắt lại. Năm 1976, gặp nhau trên đường Minh Khai, ông Dư mới biết ông Thiềm còn sống ở tập thể của Trường Đại học Bách khoa. Và người cùng khiêng thùng rác là ông Nhị, sinh sống bên Gia Lâm, nay đã mất.

Sau này, khi ông Lâm Văn Bảng ở huyện Phú Xuyên đứng ra lập bảo tàng, ông Nguyễn Trọng Dư rất tích cực cùng ông Bảng sưu tầm kỷ vật của Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt, tù đày và tìm hài cốt đồng đội bị địch giết hại ở Phú Quốc. Hồi ức không thể nào quên về một thuở bi tráng, kiên trung, bất khuất và tiếng gọi của đồng đội đã kéo ông đi đến những người còn giữ được hiện vật để mang về cho bảo tàng. Lá cờ bằng máu do ông Nguyễn Thế Nghĩa ở Bắc Giang trao tặng; roi cá đuối là của độc, do người dân Phú Quốc tặng bảo tàng. Còn các loại vồ địch tra tấn các chiến sĩ, do con trai ông Út Long ở Thành phố Hồ Chí Minh đưa cho bảo tàng. Nhờ nhiệt tâm của ông, các đội quy tập đã đến Phú Quốc, khai quật ba đợt và tìm thấy hàng nghìn bộ hài cốt quy tập về Nghĩa trang liệt sĩ Phú Quốc. Riêng tảng đá trắng, dấu tích mà địch đã dùng để lấp hàng trăm thân xác các chiến sĩ và cây ổi mọc trên mặt một hố chôn tập thể khác, ông đã mang từ Phú Quốc về bảo tàng ở Phú Xuyên.

PHẠM KIM THANH