Năm 1988, khi Quân đoàn 3 trở lại Tây Nguyên thì tôi, nhà báo Hồng Thanh Quang, nhạc sĩ Ngọc Toán còn đeo quân hàm cấp úy, công tác ở Cục Chính trị quân đoàn. Dĩ nhiên, khoảng cách tuổi đời, tuổi quân và chức vụ của chúng tôi so với ông Tiêu Văn Mẫn là quá xa. Bởi lúc đó ông đã là Thiếu tướng, Phó tư lệnh về chính trị quân đoàn, từng trải qua các cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc. Nhưng, hễ rỗi rãi, ông lại sang các phòng, ban, ghé vào bàn cờ tướng, hội tiến lên chơi với chúng tôi, bất chấp tuổi tác. Vóc dáng cao to, tiếng nói vang, giọng cười sảng khoái của ông làm cánh sĩ quan trẻ chúng tôi vui lây, mặc dù cuộc sống xa nhà nghìn dặm không tránh khỏi lo lắng, suy tư.
    |
 |
Trung tướng Tiêu Văn Mẫn (bên phải) và Trung tướng Ma Thanh Toàn, nguyên Tư lệnh Quân khu 2, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 95 (Mặt trận Tây Nguyên). Ảnh: LÊ HẢI |
Là cán bộ chính trị trưởng thành từ cấp đại đội, Trung tướng Tiêu Văn Mẫn rất ít khi rao giảng lý thuyết. Với ông, hành động thay cho lời nói. Ông bảo với chúng tôi, đối xử với đồng đội phải có thủy có chung. Cán bộ, chiến sĩ đồng cam cộng khổ, thương yêu nhau như ruột thịt là một đặc điểm riêng biệt của Quân đội ta, hiếm đội quân nào trên thế giới có được. Giờ đây, trong căn nhà mà quân đội phân cho ông từ năm 1988 ở khu Nam Đồng, TP Hà Nội, Trung tướng Tiêu Văn Mẫn trầm ngâm nói với tôi: “Cũng như nhiều cán bộ của thời chống Pháp, tôi sinh ra trong một gia đình nghèo ở xã Hành Minh, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Tuổi thơ cơ cực, cha sớm mù lòa, mẹ tần tảo nuôi con, tôi phải đi làm thuê làm mướn, 18 tuổi đi thanh niên xung phong. Năm 1953, lúc 20 tuổi đi bộ đội đánh Pháp. 47 năm quân ngũ, tôi chủ yếu sống, chiến đấu, công tác cùng cán bộ, chiến sĩ. Không có đồng đội làm sao có mình!”.
Năm 1954, Tiêu Văn Mẫn tập kết ra Bắc, rồi lập gia đình với cô gái làm nghề y đất Hà thành. Đầu năm 1966, để lại hậu phương người vợ trẻ và con thơ, Tiêu Văn Mẫn lên đường vào Mặt trận Tây Nguyên gian khổ, ác liệt trong đội hình Trung đoàn 24A với chức vụ Chính trị viên đại đội. Với khả năng của mình, chỉ hơn một năm, từ tháng 7-1967 đến tháng 10-1968, ông đã lên 4 chức, từ Chính trị viên đại đội đến Phó chính ủy Trung đoàn 24A.
- Nhờ đồng đội cả thôi! Kể cả đợt phong Anh hùng lần này cũng do Ban liên lạc Mặt trận Tây Nguyên đề nghị với các cấp có thẩm quyền - Trung tướng Tiêu Văn Mẫn nói.
Có 3 trận đánh tiêu biểu ông tham gia, để từ đó được đồng đội đề nghị Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân: Trận “tao ngộ chiến” ở chân núi Ngọc Bờ Biêng (huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum) với lữ đoàn dù 173 của Mỹ năm 1967; trận phòng ngự ở Ngọc Bờ Biêng trong Chiến dịch Đắc Tô 1, tháng 11-1967; trận diệt gọn đại đội Lôi Hổ ngụy quân Sài Gòn tháng 10-1968. Trận thì ông chỉ huy đội hình phía sau đánh quân Mỹ đổ bộ, trận thì ông phụ trách một hướng, còn trận diệt bọn Lôi Hổ, ông chỉ huy thay tiểu đoàn trưởng bị ốm. Ông nhớ nhất trận phòng ngự Ngọc Bờ Biêng kìm chân lữ đoàn dù 173 để chủ lực mặt trận đánh tiêu diệt. Hôm đó, Chính trị viên Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 24A Tiêu Văn Mẫn đi kiểm tra trận địa thì được tin Mỹ đổ bộ một tiểu đoàn, cách trận địa phòng ngự của ta chỉ 200m. Thời cơ diệt địch đã đến, ông điện thoại cho tiểu đoàn trưởng đề nghị tổ chức mũi thọc sâu, còn ông chỉ huy giữ vững trận địa. Địch tiến công lên, ông nói: “Các đồng chí bình tĩnh, để địch lại gần nhất. Khi nào tôi ra lệnh mới được nổ súng”. Địch lại gần 20m, ông dùng AK lia ngã 3 tên, cả trận địa nổ súng theo, địch buộc phải tháo chạy. Tiếp đó, quân địch nhiều lần tấn công lên nhưng trận địa của đơn vị vẫn giữ vững. Sau trận này, Tiêu Văn Mẫn được tặng thưởng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ.
- Ngày đó, cán bộ từ đại đội đến trung đoàn đều dùng AK, ít khi mang súng ngắn. Giáp địch là chiến đấu như một tay súng-Trung tướng Tiêu Văn Mẫn đột nhiên chuyển đề tài-Mà này, hồi ở Tây Nguyên, khổ nhất là sốt rét, thiếu muối, thiếu gạo. Nhất là năm 1968, 1969. Bộ đội ăn chỉ có một lạng gạo mỗi ngày, còn lại là rau rừng, sắn…
- Vậy cán bộ cấp tiểu đoàn, trung đoàn có được ưu tiên không?
- Ưu tiên gì? Làm gì có ưu tiên. Ngay Tư lệnh mặt trận Hoàng Minh Thảo tiêu chuẩn được 5 lạng gạo, tự nguyện ăn hai lạng một ngày thôi. Tôi nhớ cuối năm 1969, thiếu muối quá, tôi ra Tỉnh đội Kon Tum xin ông Thuận, Chính ủy Tỉnh đội một ít muối về chia đều cho anh em mỗi người một nhúm… Ngày ấy là vậy, tướng sĩ đồng cam cộng khổ!
Tính cách đồng cam cộng khổ, thương yêu đồng đội đã trở thành bản chất, kể cả sau này ông trở thành vị tướng. Đầu năm 1990, ông rời Quân đoàn 3, về làm Chủ nhiệm Chính trị rồi Phó tư lệnh về chính trị Quân khu 5. Đất nước hết chiến tranh rồi, đời sống ngoài xã hội khá lên, nhưng phần lớn anh em cán bộ quân khu đều chưa có nhà ở. Trên cương vị Bí thư Đảng ủy và Chủ tịch Hội đồng Nhà đất quân khu, ông đề nghị Thường vụ Đảng ủy quân khu cấp đất cho anh em có gia đình mà chưa có nhà ở để “an cư lạc nghiệp”. Cấp một cách công khai và công bằng. Riêng ông vẫn ở nhà công vụ, đến khi về hưu trả lại cho quân khu, trở về tổ ấm ở khu Nam Đồng.
- Mình là cán bộ chỉ huy, nên nghĩ đến đồng đội, đến anh em cấp dưới còn khó khăn, thiếu thốn. Ngày đó, tôi mà tham một chút thì không được anh em yêu quý đến tận hôm nay và cũng không có ông Mẫn của ngày hôm nay-Trung tướng Tiêu Văn Mẫn cười sảng khoái.
Năm 2000 về hưu, ông tham gia Thường vụ Đảng ủy phường, đảm nhiệm chức Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin TP Hà Nội, 10 năm làm Trưởng ban liên lạc Mặt trận Tây Nguyên… Nhiều người khuyên ông nên nghỉ ngơi vui vầy với con cháu, tham việc làm gì cho mệt. Ông nghĩ, mình còn sức khỏe, còn có ích bao nhiêu thì còn cần cho đồng đội bấy nhiêu. Vậy là, người ta lại thấy bóng dáng cao to với nụ cười nhân hậu của ông đến các gia đình, bệnh viện thăm hỏi nạn nhân chất độc da cam/dioxin, thương binh, bệnh binh. Chiến tranh đi qua đã lâu, nhưng di chứng chất độc da cam/dioxin vẫn còn dai dẳng, và như ông nói, đến thế hệ thứ ba vẫn chưa hết.
- Đồng đội mình thiệt thòi quá. Nhiều người chiến đấu ở chiến trường ác liệt, giải phóng đất nước xong về quê với hai bàn tay trắng. Thương binh thì mất giấy tờ, người bị nhiễm chất độc da cam/dioxin thì không có giấy chứng nhận. Chúng tôi vừa chứng nhận, vừa đi xác minh, rồi vào tận các đơn vị đề nghị. Kết quả là đã có hơn 100 đồng đội được giải quyết chế độ. Nhưng cũng mới đạt 60% số người nộp đơn cho chúng tôi thôi.
Làm Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin TP Hà Nội, với bản tính điềm đạm nhưng thẳng thắn, ông nhiều lần đề nghị các cơ quan chức năng nghiên cứu sửa các quy định về nạn nhân chất độc da cam để người nhiễm bệnh đỡ thiệt thòi, nhưng không thành. Thôi giữ chức Chủ tịch hội, đến nay ông vẫn day dứt...
Ông trầm ngâm giây lát rồi nói tiếp:
- Nói thật, một số lãnh đạo ban, ngành giờ thờ ơ trước nỗi đau của đồng đội chúng ta lắm. Có lần, một vị đã nhận lời mời của chúng tôi đến dự Đại hội Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin, nhưng quá giờ khai mạc 40 phút rồi mới sai thư ký thông báo vì bận nên không dự được. Sôi lên, tôi gọi điện cho vị đó bảo rằng, anh là lãnh đạo mà không nghiêm chỉnh, vô nguyên tắc, sau hết là vô cảm... Đấy, tôi nói thẳng thế đấy!
Đằng sau sự thẳng thắn của ông là tấm lòng nhân ái, mộc mạc và giản dị, luôn nghĩ về đồng đội thân yêu. Giờ đây hoàn toàn trở thành “thường dân” như ông nói, nhưng có việc liên quan đến đồng đội, dù người đó ngày xưa chỉ là chiến sĩ, ông vẫn có mặt. “Giúp được đồng đội bao nhiêu cũng nên cố gắng”-Trung tướng Tiêu Văn Mẫn nói với tôi như vậy.
HỒNG SƠN